Phần 1: Lịch sử Việt Nam – CĐ4. Phong trào cách mạng 1930 – 1935
Tiếp theo Phần 1: Lịch sử Việt Nam – Chủ đề 4. Phong trào cách mạng 1930 – 1935, nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:
CHỦ ĐỀ 4
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1935
- VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI 1929 – 1933
- Tình hình kinh tế
– Từ năm 1930, kinh tế Việt Nam bước vào thời kì suy thoái. Là một nước nông nghiệp, lúa gạo bị sụt giá. Ruộng đất bỏ hoang năm 1930 là 200.000 héc ta, năm 1933 là 500.000 héc ta.
– Hoạt động sản xuất công nghiệp bị suy giảm. Năm 1929, tổng giá trị sản lượng khai khoáng của Đông Dương là 18 triệu đồng, năm 1933 chỉ còn 10 triệu đồng. Trong thương nghiệp, xuất nhập khẩu đình đốn. Hàng hóa khan hiếm, giá cả đắt đỏ.
– Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam rất nặng nề so với các thuộc địa khác của
Pháp cũng như so với các nước trong khu vực.
- Tình hình xã hội
– Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là làm trầm trọng thêm tình trạng đói khổ của
các tầng lớp nhân dân lao động. Nhiều công nhân bị sa thải.
– Cuộc sống của thợ thuyền ngày càng khó khăn.
– Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải bán hạ giá. Ruộng đất bị địa chủ người Pháp và nguời Việt chiếm đoạt. Họ bị bần cùng hóa.
– Các tầng lớp nhân dân lao động khác như tiểu thương, tiểu chủ, viên chức, trí thức nhỏ và một số tư sản dân tộc… cũng không tránh khỏi tác động xấu của khủng hoảng kinh tế. Các nghề thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa, viên chức bị sa thải, học sinh ra trường không có việc. Một số đông tư sản dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh.
– Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, trong đó có hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ phong kiến, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai phản động.
- PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 -1931 VÀ XÔ VIẾT NGHỆ – TĨNH
- Phong trào cách mạng 1930 – 1931
– Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế và thực dân Pháp đàn áp đẫm máu cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Đảng đã kịp thời lãnh đạo phong trào đấu tranh của nhân dân trong phạm vi cả nước.
– Mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiện đời sống. Công nhân đòi tăng lương, giảm giờ làm. Nông dân
đòi giảm sưu, giảm thuế. Bên cạnh đó, cũng xuất hiện những khẩu hiệu chính trị.
– Tháng 5 – 1930, trên phạm vi cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày Quốc tế Lao
động 1-5.
– Các cuộc đấu tranh này đánh dấu bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần đầu tiên, công nhân Việt Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đấu tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình đoàn kết cách mạng với nhân dân lao động thế giới.
– Sang tháng 9, phong trào đấu tranh dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Những cuộc biểu tình của nông dân (có vũ trang tự vệ) với hàng nghìn người tham gia kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu, giảm thuế ở các huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Đô Lương (Nghệ An), Can Lộc, Thạch Hà, cẩm Xuyên, Kì Anh (Hà Tĩnh). Các cuộc đấu tranh này được công nhân Vinh – Ben Thủy hưởng ứng.
– Hệ thống chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều huyện, xã. Nhiều tên tri
huyện, lí trưởng bỏ trốn hoặc đầu tháng.
– Trong tình hình đó, nhiều cấp ủy Đảng ở thôn xã lãnh đạo nhân dân đứng ra làm chủ vận mệnh của mình, tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền, mà trong lịch sử gọi là Xô viết Nghệ – Tĩnh.
Ở Bắc Kì, có các cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Duy Tiên, Bình Lục (Hà
Nam), công nhân nhà máy dệt Nam Định, công nhân các nhà máy ở Hải Phòng.
Ở Trung Kì, trong tháng 10 – 1930 có các cuộc đấu tranh của nông dân huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh
(Quảng Ngãi).
Ở Nam Kì, trong tháng 10 – 1930 có các cuộc đấu tranh ở Bà Chiểu (Sài Gòn), Chợ Lớn, Cao
Lãnh (Sa Đéc).
- Xô viết Nghệ – Tĩnh
– Tại Nghệ An, Xô viết ra đời ngay sau các cuộc biểu tình từ tháng 9 – 1930 ở các xã huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân, Hương Khê vào cuối năm 1930, đầu năm 1931. Các Xô viết đã tổ chức, lãnh đạo quần chúng làm các việc sau đây:
+ Về chính trị, quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể cách mạng, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ và tòa án nhân dân được thành lập.
+ Về kinh tế, thi hành các biện pháp tịch thu ruộng đất công, tiền lúa công chia cho dân cày nghèo; bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối, xóa nợ cho người nghèo, chú trọng đắp đê phòng lụt, tu sửa cầu cống, đường giao thông; thành lập các hình thức tổ chức sản xuất để nông dân giúp đỡ
nhau.
+ Về văn hóa – xã hội, xóa bỏ các tệ nạn xã hội cũ như mê tín, dị đoan, tệ rượu chè, cờ bạc, trộm cắp. Trật tự trị an được giữ vững. Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nhân dân được xây dựng.
Xô viết Nghệ – Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931 và là nguôn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng nhân dân trong cả nước.
* Ý nghĩa lịch sử của phong trào cách mạng 1930- 1931 và Xô viết Nghệ – Tĩnh:
– Phong trào cách mạng 1930 – 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Nó khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước ở Đông Dương. Từ phong trào, khối liên minh công – nông hình thành, công nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng. Phong trào có ý nghĩa như cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
– Phong trào cách mạng 1930 – 1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là bộ phận độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
– Phong trào cách mạng 1930 – 1931 đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh công nông và mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh v.v…
- Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương lâm thòi Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 10 – 1930)
– Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang diễn ra quyết liệt, Ban chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào tháng 10 – 1930.
– Hội nghị đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương; cử ra Ban chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú là Tổng Bí thư và thông qua Luận cương chính trị của Đảng.
– Nội dung của luận cương:
+ Luận cương xác định những vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng Đông Dương. Cách mạng Đông Dương lúc đầu là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.
+ Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh phong kiến và đánh đế quốc, có quan hệ khăng khít với nhau. Động lực cách mạng là giai cấp vô sản và nông dân. Lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản với đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.
+ Luận cương chính trị cũng nêu rõ hình thức và phương pháp đấu tranh, về mối quan hệ giữa
cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Tuy nhiên, Luận cương còn có những mặt hạn chế, như chưa nêu được mâu thuân chủ yếu của xã hội Đông Dương, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng lớp tiểu tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
– Trong thời gian này, thực dân Pháp tiến hành khủng bố dã man phong trào đấu tranh cách mạng, chúng thực hiện chương trình bình định về quân sự, chính trị ở Nghệ – Tĩnh. Nhiều đơn vị lính khố đỏ, lính lê dương được điều đến đàn áp phong trào. Lệnh thiết quân luật được ban bố. Chúng dùng thủ đoạn “buộc dân cày ra đầu thú”, bắt nhân dân tổ chức “rước cờ vàng”, nhận “thẻ quy thuận” v.v…
– Trước tình hình đó, Trung ương Đảng tập trung chỉ đạo, có những chỉ thị cụ thể cho Nghệ – Tĩnh, kêu gọi nhân dân cả nước đấu tranh ủng hộ và bảo vệ Xô viết Nghệ – Tĩnh. Nhưng do điều kiện bất lợi về nhiều mặt, phong trào cách mạng ở Nghệ – Tĩnh dần dần đi xuống. Đến cuối năm 1931, Xô viết Nghệ – Tĩnh nói riêng, phong trào cả nước nói chung đã tạm lắng.
III. PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1932 – 1935
- Cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng
– Khi phong trào cách mạng 1930 – 1931 lắng xuống, thực dân Pháp vẫn tiếp tục thi hành chính sách khủng bố và mị dân.
– Hàng vạn người bị bắt bớ, tù đầy. Các trại giam và nhà tù chật ních tù chính trị như nhà tù Hỏa
Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), nhà tù Côn Đảo, Kon Tum, Lao Bảo, Sơn La…
– Từ năm 1931 đến giữa năm 1932, hầu hết các ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Xứ ủy
Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì bị bắt.
– Cùng với việc khủng bố, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn mị dân, lừa bịp lôi kéo các tầng lớp quan lại, địa chủ, tư sản, trí thức, mê hoặc nhân dân. Về chính trị, chúng cho tăng số đại diện người Việt vào cơ quan lập pháp cấp Kì; về kinh tế, chúng cho người bản xứ được tham gia đấu thầu một số công trình thủy lợi, cầu đường; về giáo dục, chúng cho tổ chức lại Trường Cao đẳng Đông Dương và Trường Luật để thu hút con em tầng lớp trên; lợi dụng các giáo phái để chia rẽ phong trào nhân dân.
– Trong hoàn cảnh đó, những người cộng sản vẫn kiên cường đấu tranh phù hợp với điều kiện của mình. Những đảng viên trong tù kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng, tổng kết bài học kinh nghiệm chỉ đạo phong trào, tổ chức vượt ngục, những đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng và quần chúng.
– Một số đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc và Thái Lan trở về nước hoạt động.
– Năm 1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí ở trong nước và ngoài nước nhận chỉ thị của
Quốc tế Cộng sản tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
– Tháng 6 – 1932, Ban lãnh đạo Trung ương thảo ra chương trình hành động của Đảng. Chương trình hành động nêu chủ trương đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ cho nhân dân lao động, thả tù chính trị, bãi bỏ các thứ thuế bất công, củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng.
– Dựa vào chương trình hành động, phong trào đấu tranh của quần chúng được nhen nhóm trở lại với các tổ chức như Hội cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ, Hội đọc sách báo v.v…
– Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân đã nổ ra: năm 1932 có 230 cuộc, năm 1933 có 244 cuộc, tập trung ở các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sài Gòn, Gia Định. Nông dân các tỉnh Gia Định, Long Xuyên, Trà Vinh, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn liên tiếp có các cuộc đấu tranh.
– Trong thời kì này, một số hình thức đấu tranh khác xuất hiện như vận động bầu cử, hoạt động trên lĩnh vực báo chí. Năm 1935, đại biểu cho những người lao động đã trúng cử vào hội đồng thành phố Sài Gòn. Một số đảng viên hoạt động hợp pháp đã sử dụng báo chí công khai đấu tranh chống những
quan điểm chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật tư sản, tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối chủ trương của Đảng.
– Đến cuối năm 1933, các tổ chức Đảng dần dần được phục hồi và củng cố. Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo Hải ngoại được thành lập do Lê Hồng Phong đímg đầu. Cuối năm 1934 đầu năm 1935, các xứ ủy Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì được lập lại. Xứ ủy Lào được thành lập trong tháng 9 – 1934. Ban Chấp ủy Nam Đông Dương và Ban Chấp ủy Bắc Đông Dương cũng được lập ra để thuận tiện cho việc liên lạc.
– Đầu năm 1935, các tổ chức Đảng và phong trào được phục hồi.
- Đại hội đại biểu lần thử nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 3 – 1935)
– Từ ngày 27 đến ngày 31 – 3 – 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự đại hội có 13 đại biểu thay mặt cho hơn 500 đảng viên thuộc các Đảng bộ trong nước và nước ngoài.
– Sau khi đánh giá tình hình, Đại hội xác định ba nhiệm vụ của Đảng trong thời gian trước mắt là:
củng cố sự phát triển Đảng; tranh thủ quần chúng rộng rãi; chống chiến tranh đế quốc.
– Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận động công nhân, nông dân, binh lính, phụ nữ; về công tác trong các dân tộc thiêu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
– Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương gồm 13 người và bầu Lê Hồng Phong làm Tổng Bí
thư của Đảng. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
– Đại hội đại biểu quốc tế toàn quốc lần thứ nhất của Đảng đánh dấu mốc quan trọng: Đảng đã khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến ngoài nước, đã khôi phục được các tổ chức quần chúng.