CĐ13: Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền bắc, giải phóng hoàn toàn

Bài tiếp theo Chủ đề 13: Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền bắc, giải phóng hoàn toàn, nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:

 

CHỦ ĐỀ 13:

KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI MIỀN BẮC, GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN

MIỀN NAM (1973 – 1975)

I.MIỀN     BẮC KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI, RA SỨC CHI VIỆN CHO

MIỀN NAM

– Sau Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt Nam, quân Mĩ buộc phải rút khỏi nước ta, làm thay đối so sánh lực lượng ở miền Nam có lợi cho cách mạng. Miền Bắc trở lại hoà bình, tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tê – xã hội, ra sức chi viện cho tiền tuyến miền Nam.

-Đến  cuối tháng 6 – 1973, miền Bắc căn bản hoàn thành việc tháo gỡ thuỷ lôi, bom mìn do Mĩ thả

trên biển, trên sông, bảo đảm đi lại bình thường.

– Sau hai năm (1973 – 1974), về cơ bản miền Bắc khôi phục xong các cơ sở kinh tế, các hệ thống thuỷ nông, mạng lưới giao thông, các công trình văn hoá, giáo dục, y tế, kinh tế có bước phát triển.

-Đến  cuối năm 1974, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp trên một số mặt trận quan trọng đã vượt mức năm 1964 và năm 1971 là hai năm đạt mức cao nhất trong 20 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

-Thực  hiện nghĩa vụ hậu phương, trong hai năm 1973 – 1974, miền Bắc đưa vào chiên trường miền Nam, Cam-pu-chia, Lào gần 20 vạn bộ đội, hàng vạn thanh niên xung phong, cán bộ chuyên môn, nhân viên kĩ thuật. Đột xuất trong hai tháng đâu năm 1975, miền Bắc gấp rút đưa vào miền Nam 57.000 bộ đội (trong tổng số 108.000 bộ đội của kế hoạch tổng động viên năm 1975).

– Về vật chất – kĩ thuật, miền Bắc đã có những nỗ lực phi thường, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu

cầu to lớn và cấp bách của cuộc tổng tiến công chiến lược ở miền Nam.

II.MIỀN       NAM ĐẤU  TRANH CHỐNG ĐỊCH  “BÌNH ĐỊNH  – LẤN CHIẾM  “ TẠO THẾ  VÀ

LỰC, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN

Với Hiệp định Pa-ri năm 1973, ta “đánh cho Mĩ cút”. Ngày 29 – 3 – 1973, toán lính Mĩ cuối cùng đã rút khỏi nước ta. Nhưng Mĩ vẫn giữ lại hơn 2 vạn cố vấn quân sự, lập ra Bộ chỉ huy quân sự, tiếp tục viện trợ quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn.

Được cố vấn Mĩ chỉ huy và nhận viện trợ của Mĩ, chính quyền Sài Gòn ngang nhiên phá hoại Hiệp định Pa-ri, chúng huy động gần như toàn bộ lực lượng tiến hành chiên dịch “tràn ngập lãnh thô ”, liên tiêp mở những cuộc hành quân “bình định – lấn chiếm ” vùng giải phóng. Đây thực chất là hành động tiếp tục chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Ních-Xơn.

Về phía ta, việc kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và quân đội xâm lược Mĩ rút khỏi nước ta đã tạo nên sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng có lợi cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam theo chiều hướng chống âm mưu và hành động mới của Mĩ và chính quyền Sài Gòn.

Trong cuộc đấu tranh chống địch “bình định – ỉấn chiếm”, chống âm mưu “tràn ngập lãnh thổ” của chúng vào những tháng đầu năm sau khi kí hiệp định, quân dân ta đã đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng do không đánh giá hết âm mưu phá hoại Hiệp định của địch, do quá nhấn mạnh đến hoà bình, hoà hợp dân tộc… nên trên một số địa bàn quan trọng, ta bị mất đất, mất dân.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ4. Phong trào cách mạng 1930 - 1935

Nắm bắt tình hình trên, tháng 7 – 1973, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 21. Trên cơ sở nhận định kẻ thù vẫn là đế quốc Mĩ và tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu – kẻ đang phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc, ngăn cản nhân dân ta đi tới độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc hội nghị nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn hiện tại là tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Hội nghị nhấn mạnh trong bất cứ tình hình nào cũng phải tiếp tục con đường cách mạng bạo lực, phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao.

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 21 của Đảng, từ cuối năm 1973, quân dân ta ở

 

miền Nam vừa kiên quyết đánh trả địch, bảo vệ vùng giải phóng, vừa chủ động mở những cuộc tiến công

địch, mở rộng vùng giải phóng.

Cuối năm 1974 đầu năm 1975, ta mở đợt hoạt động quân sự Đông – Xuân vào hướng Nam Bộ, trọng tâm là Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Quân ta đã giành thắng lợi vang dội trong chiến dịch Đường 14 – Phước Long. Trong chiến dịch này (từ ngày 12 – 12 – 1974 đến 6 – 1 – 1975), ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 3000 địch, giải phóng đường 14, thị xã và toàn tỉnh Phước Long với 50.000 dân.

Sau chiến thắng này của ta, chính quyền Sài Gòn phản ứng mạnh và đưa quân chiếm lại, nhưng đã thất bại. Còn Mĩ chỉ phản ứng yếu ớt, chủ yếu dùng áp lực từ xa đe doạ.

Phối hợp với đấu tranh quân sự, nhân dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chính trị, ngoại giao nhằm tố cáo hành động của Mĩ và chính quyền Sài Gòn vi phạm Hiệp định, phá hoại hoà bình, hoà hợp dân tộc, nêu cao tính chất chính nghĩa cuộc chiến đấu của nhân dân ta; đòi lật đổ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, thực hiện các quyền tự do, dân chủ…

Tại các vùng giải phóng, đồng thời với cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, nhân dân ta ra sức khôi phục và đẩy mạnh sản xuất, tăng nguồn dự trữ chiến luợc cho cuộc chiến đấu hoàn thành giải phóng miền Nam.

Các ngành sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp, các mặt hoạt động văn hoá, xã hội,

giáo dục, y tế cũng được đẩy mạnh.

III.GIẢI       PHÓNG HOÀN TOÀN MIỀN  NAM, THỐNG NHẤT  TOÀN VẸN  LÃNH THỔ TỔ QUỐC

1.Chủ    trương, kế hoạch giải phóng miền Nam

Cuối năm 1974 đầu năm 1975, trong tình hình so sánh lực lượng ở miền Nam thay đổi mau lẹ có lợi cho cách mạng, Bộ Chính trị Trung ương Đảng đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong hai năm 1975 và 1976.

Tuy nhiên, Bộ Chính trị nhấn mạnh “cử năm 1975 là thời cơ” và chỉ rõ “new thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phỏng miền Nam trong năm 1975 Bộ Chính trị cũng nhấn mạnh sự cần thiết tranh thủ thời cơ đánh thắng nhanh để đỡ thiệt hại về người và của cho nhân dân, giữ gìn tốt cơ sở kinh tế, công trình văn hoá… giảm bớt sự tàn phá của chiến tranh.

2.Cuộc    tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đã diễn ra trong gần 2 tháng (từ ngày 4-3 đến 2 – 5) qua ba chiến dịch lớn: Tây Nguyên, Huế – Đà Nằng và chiến dịch Hồ Chí Minh.

  1. Chiến dịch Tây Nguyên (từ ngày 3-4 đến 24 – 3)

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, cả ta và địch đều cố nắm giữ. Nhưng do nhận định sai hướng tiến công của quân dân ta, địch chốt giữ ở đây một lực lượng mỏng, bố phòng có nhiều sơ hở. Căn cứ vào đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chọn Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu trong năm 1975.

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ6. Cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng toàn cầu

Thực hiện kế hoạch, ta tập trung chủ lực mạnh với vũ khí kĩ thuật hiện đại, mở chiến dịch quy mô lớn ở Tây Nguyên. Trận then chốt mở màn ở Buôn Mê Thuột ngày 10 -3 – 1975 đã giành thắng lợi, (trước đó, ngày 4-3, quân ta đánh nghi binh ở Plâycu và Kon Turn nhằm thu hút quân địch vào hướng đó). Ngày 12

– 3 – 1975, địch phản công chiếm lại Buôn Mê Thuột nhưng không thành.

Sau hai đòn ở Buôn Ma Thuột (vào các ngày 10 và 12-3), hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên rung chuyển, quân địch mất tinh thần, hàng ngũ rối loạn. Ngày 14 – 3 – 1975, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút toàn bộ quân Tây Nguyên về giữ vùng duyên hải miền Trung. Trên đường rút chạy, chúng bị quân ta truy kích tiêu diệt. Đen ngày 24 – 3 – 1975, Tây Nguyên rộng lớn với 60 vạn dân hoàn toàn giải phóng.

Chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi đã chuyển cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước sang giai đoạn mới: từ tiến công chỉến lược ở Tây Nguyên phát triển thành Tổng tiến công chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.

  1. Chiến dịch Huế – Đã Nang (từ ngày 21-3 đến 29 – 3)

 

Nhận thấy thời cơ chiến lược đến nhanh, hết sức thuận lợi, ngay khi chiến dịch Tây Nguyên đang tiếp diễn, Bộ Chính trị đã quyết định kịp thời kế hoạch giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam, trước tiên tiến hành chiến dịch giải phóng Huế – Đà Nằng.

Phát hiện địch co cụm ở Huế, ngày 21-3, quân ta đánh thẳng vào căn cứ địch, chặn các đường rút chạy của chúng, hình thành thế bao vây chúng trong thành phố. Đúng 10 giờ 30 ngày 25 – 3, quân ta tiến vào cố đô Huế, đến hôm sau (26 – 3) thì giải phóng thành phố và toàn tỉnh Thừa Thiên.

Đà Nằng, thành phố lớn thứ hai ở miền Nam, một căn cứ quân sự liên họp lớn nhất của Mĩ và quân đội

Sài Gòn rơi vào thế cô lập. Hơn 10 vạn địch dồn ứ về đây trở nên hỗn loạn, mất khả năng chiến đấu. Sáng

29-3, quân ta từ ba phía Bắc, Tây, Nam tiến thẳng vào thành phố, đến 3 giờ chiều thì chiếm toàn bộ Đà

Nang.

Trong cùng thời gian trên, từ cuối tháng 3 đến tháng 4, nhân dân các tỉnh còn lại ở ven biển miền Trung, Nam Tây Nguyên và một số tỉnh ở Nam Bộ, có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang địa phương và quân chủ lực, đã nồi dậy giành quyền làm chủ.

  1. Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26-4 đến 30-4)

Sau thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên và chiến dịch Huế – Đà Nang, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhận định “Thời cơ chiến lược đã đến, ta có điểu kiện hoàn thành sớm quyết tâm giải phóng miền Nam từ đó đi đến quyết định “Phải tập trung nhanh nhất lực lượng, bỉnh khí kĩ thuật và vật chất giải phóng miền Nam trước mùa mưa (trước tháng 5 -1975)”. Chiến dịch giải phóng Sài Gòn được Bộ Chính trị quyết định mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh (14 – 4 – 1975).

Trước khi bắt đầu chiến dịch giải phóng Sài Gòn, quân ta tiến công Xuân Lộc và Phan Rang – những căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ5. Phong trào dân chủ 1936 - 1939

17 giờ ngày 26 – 4, quân ta được lệnh tổng nổ súng mở đầu chiến dịch, 5 cánh quân vượt qua tuyến

phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào trung tâm Sài Gòn, đánh chiếm các cơ quan đầu não của chúng.

10 giờ 45 phút ngày 30 – 4, xe tăng của ta tiến thẳng vào Dinh Độc lập, bắt sống toàn bộ Chính phủ Trung ương Sài Gòn, Dương Văn Minh vừa lên chức Tổng thống Chính phủ Sài Gòn ngày 28 – 4 đã phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Dinh Độc lập báo hiệu sự toàn thắng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

  1. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI CỦA KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954- 1975)
  2. Ý nghĩa lịch sử

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi đã kết thúc 21 năm chiến đấu chống Mĩ và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc từ sau Cách mạng tháng Tám 1945; chấm dứt ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc và chế độ phong kiến ở nước ta. Trên cơ sở đó, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thống nhất đất nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước mở ra kỉ nguyên mới của lịch sử dân tộc – kỉ

nguyên đất nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của nhân dân ta, thất bại của đế quốc Mĩ đã tác động mạnh đến tình hình nước Mĩ và thế giới nhất là đối với phong trào giải phóng dân tộc.

Thắng lợi đó “Mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỉ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.

  1. Nguyên nhân thắng lợi

Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi là nhờ có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chính trị, quân sự độc lập, tự chủ; đường lối tiến hành đồng thời cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền

 

Nam đúng đắn, sáng tạo với phương pháp đấu tranh linh hoạt, kết họp với đấu tranh quân sự – chính

trị – ngoại giao.

Nhân dân ta ở hai miền giàu lòng yêu nước, đoàn kết, nhất trí, lao động cần cù, chiến đấu dũng cảm vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Hậu phương miền Bắc không ngừng lớn mạnh, có khả năng đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc chiến đấu ở hai miền.

Cuộc kháng chiến thắng lợi còn nhờ sự phối họp chiến đấu, đoàn kết giúp đỡ nhau trong quá trình đấu tranh chống kẻ thù chung của ba dân tộc ở Đông Dương; sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của các lực lượng cách mạng, hòa bình, dân chủ trên thế giói, nhất là Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác; phong trào nhân dân Mĩ và nhân dân thế giới phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mĩ.

CHỦ ĐỀ 13. KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI MIỀN BẮC....(1973 - 1975)_hoctai.vn.zip