Ngữ văn lớp 10 – Uy-lít-xơ trở về – Chiến thắng Mtao Mxây

Nội dung kiến thức Chuyên đề 2

  1. Chiến thắng Mtao Mxây
  2. Uy-lít-xơ trở về
  3. Lập dàn ý bài văn tự sự
  4. Chọn sự việc, chi tiết tiêu biểu trong bài văn tự sự

 Link tải File nằm phía cuối bài viết

Mục tiêu

Kiến   thức

+Giới    thiệu được thể loại sử thi là thành tựu văn học vĩ đại, là bách khoa tri thức, tập đại thành

nghệ thuật của các cộng đồng.

+   Phát hiện vẻ đẹp của tác phẩm sử thi qua việc xây dựng nhân vật anh hùng, thủ pháp kì vĩ, ngôn

ngữ tráng lệ, hào hùng.

+Nhận    biết cấu trúc bài văn tự sự về cốt truyện, tình tiết, diễn biến, chi tiết.

+   Xác định được các chi tiết tiêu biểu trong văn tự sự.

Kĩ   năng

+   Tái hiện được thời đại bối cảnh ra đời sử thi, đặt sử thi trong hoàn cảnh diễn xướng.

+Giải    mã các biểu tượng, hình ảnh biểu trưng trong sử thi.

+Tạo     ra các mô hình cốt truyện để viết bài văn kể chuyện: tạo tình huống, nhân vật, tình tiết, diễn biến…

+   Phác thảo văn bản tự sự từ những chi tiết tiêu biểu.

+   Phân tích vai trò chi tiết trong văn tự sự.

 

 

  1. VĂN BẢN VĂN HỌC
  2. LÍ THUYẾT TRỌNG TÂM
  3. CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY Trích Đăm Săn, sử thi Tây Nguyên a. Sử Thi

– Sử thi dân gian

+ Sử thi thần thoại

+ Sử thi anh hùng.

– Nghệ thuật sử thi

+ Ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh, nhịp điệu.

+ So sánh, phóng đại

+ Sắc thái văn hóa cộng đồng.

– Sử thi Đăm Săn

+ Sử thi anh hùng Tây Nguyên

+ Kể về cuộc đời, chiến công người anh hùng Đăm Săn.

– Chiến thắng Mtao Mxây

+ Kể chuyện Đăm Săn đánh Mtao Mxây cứu vợ về.

  1. Người anh hùng Đăm Săn

– Trong trận chiến với Mtao Mxây

+ Đăm săn

 Bình tĩnh, tự tin, chủ động khiêu chiến trên đất của Mtao Mxây.

 Tài năng, sức mạnh phi thường.

 Được Hơ Nhị và ông trời giúp sức.

 Chiến thắng vẻ vang, trở nên giàu có và hùng mạnh hơn.

+ Mtao Mxây

 Hèn nhát, do dự, sợ hãi ngay trong chính nhà nhà mình.

 Bất tài, kiêu căng, ngạo mạn.

 Đơn thương độc mã

 Thua trận, hèn nhát xin tha mạng, trả giá bằng mạng sống.

– Trong lễ ăn mừng chiến thắng

+ Lễ ăn mừng

 Tiệc tùng, ăn uống linh đình cả mùa khô.

 Rộn rã âm thanh cồng chiêng.

 Khách khứa đông nghịt, nhiều tù trưởng phương xa tới.

 Cảnh tượng xưa nay chưa từng có.

+ Đăm Săn

 

 

 Giàu có, hiếu khách, bạn bè như nêm, xếp.

 Quyền uy, danh vang đến thần, tiếng tăm lừng lẫy.

 Có vẻ đẹp và sức mạnh phi thường.

 Tiêu biểu cho vẻ đẹp, sức mạnh, khát vọng của cộng đồng người Ê-đê.

  1. UY-LIT-XƠ TRỞ VỀ Trích Ô-đi-xê, sử thi Hi lạp a. Sử thi Ô-Đi-Xê

– Tác giả

+ Hô-me-rơ, nhà thơ mù.

+ Sống vào khoảng thế kỷ IX – VIII trước Công nguyên

+ Mang tên Mê-lê-xi-gien (con của dòng Mê-lét)

– Hoàn cảnh ra đời

+ Chiến tranh kết thúc, người Hi Lạp bắt đầu xây dựng hòa bình và mở rộng địa bàn cư trú ra

biển.

– Chủ đề

+ Chinh phục thiên nhiên để khai sáng, mở rộng giao lưu.

+ Tái hiện xung đột giữa các nền văn minh, trình độ văn hóa.

+ Cuộc đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc gia đình.

+ Ngợi ca hai mẫu anh hùng tiêu biểu của văn hóa Hi Lạp: A-Sin biểu tượng cho sức mạnh thể chất và Uy-lít-xơ biểu tượng cho sức mạnh trí tuệ của người Hi Lạp.

  1. Uy-Lít-Xơ trở về

– Pê-nê-lốp

+ Hoàn cảnh hiện tại: éo le (chờ đợi chồng 20 năm đằng đẵng; phải đối mặt với 108 kẻ cầu hôn).

+ Thận trọng, khôn ngoan, tỉnh táo, bình tĩnh kìm nén cảm xúc.

+ Thủy chung, kiên trinh bảo vệ phẩm giá, hạnh phúc gia đình.

– Uy-lít-xơ

+ Yêu thương, tin tưởng vợ con.

+ Bình tĩnh, nhẫn nại.

+ Thông minh, trí tuệ.

– Nghệ thuật

+ Miêu tả tâm lý nhân vật cụ thể, chi tiết.

+ Lối so sánh có đôi giàu hình ảnh.

+ Ngôn ngữ trong sáng, hào hùng.

  1. BÀI TẬP CỦNG CỐ

Bài 1: Sử thi dân gian có mấy loại, đó là những loại nào?

Gợi ý làm bài

 

 

Có hai loại sử thi dân gian: sử thi thần thoại và sử thi anh hùng.

+ Sử thi thần thoại: như Đẻ đất đẻ nước (Mường), Ẩm ệt luông (Thái), Cây nêu thần (Mnông)… kể về sự hình thành thế giới, sự ra đời của muôn loài, sự hình thành các dân tộc và các vùng cư trú cổ đại, sự xuất hiện nền văn minh buổi đầu…

+ Sử thi anh hùng: như Đăm Săn, Đăm Di, Xinh Nhã, Khinh Dú (Ê-đê), Đăm Noi (Ba-na)… kể về cuộc đời và sự nghiệp của các tù trưởng anh hùng.

Bài 2: Tóm tắt đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây trong khoảng 8-10 câu.

Gợi ý làm bài

Tóm tắt đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây:

 Đăm Săn khiêu chiến và Mtao Mxây đáp lại.

 Mtao Mxây múa khiên trước. Hắn múa vụng về, kém cỏi nhưng huênh hoang, khoác loác.

 Đăm Săn múa khiên và chạy nhanh vun vút khiến Mtao Mxây chém trượt.

 Mtao Mxây bảo Hơ Nhị ném cho hắn miếng trầu nhưng Đăm Săn đớp được, sức chàng tăng lên gấp bội.

 Đăm Săn múa khiên như bão, như lốc và đuổi theo Mtao Mxây. Chàng đâm trúng kẻ thù nhưng áo hắn

không thủng.

 Được ông Trời báo mộng, Đăm Săn lấy chày mòn ném vào vành tai Mtao Mxây.

 Mtao Mxây chết, tôi tớ của hắn tự nguyện mang của cải theo Đăm Săn trở về.

 Đăm Săn tổ chức lễ cúng thần linh và ăn mừng chiến thắng linh đình, tiếng tăm chàng vang dội khắp nơi.

Bài 3: So sánh hai nhân vật Đăm Săn và Mtao Mxây trong trận chiến. Những nghệ thuật nào được sử dụng để làm nổi bật hình tượng hai nhân vật này?

Gợi ý làm bài

So sánh Đăm Săn và Mtao Mxây trong trận chiến:

 

Đăm Săn

Mtao Mxây

Thái độ: chủ động, bình tĩnh, thản nhiên ngay trên

đất của kẻ thù.

+ Một  mình đứng dưới  chân cầu  thang nhà Mtao

Mxây lớn tiếng thách đọ dao.

+ Dọa bổ đôi sàn hiên, chẻ cầu thang, đốt nhà nếu

Mtao Mxây không xuống.

Thái độ:  do dự, đầy  lo âu, sợ  hãi ngay trong nhà mình, trên đất đai của mình

+ Không dám nhận lời thách đấu của Đăm Săn

+ Không dám xuống nhà vì sợ bị đâm trộm

+ Khi phải xuống,  dáng tần ngần  do dự, bước đi đắn đo giữa đám đông mịt  mù như  trong sương sớm.

Có phong thái trượng phu, có tài năng và sức mạnh

phi thường:

+ Nhường Mtao Mxây múa khiên trước.

+ Có tài chạy nhanh vun vút: một lần xốc tới vượt một đồi tranh, một lần xốc tới nữa, vượt đồi lồ ô…

+ Có tài múa khiên nhanh, mạnh,  lay trời chuyển đất: múa trên cao gió như bão, múa dưới thấp, gió như lốc, múa chạy nước kiệu khiến núi nứt rạn, đồi tranh bật rễ bay tung…

Khả năng: bất  tài nhưng lại  huênh hoang, khoác loác

+ Múa khiên kêu lạch xạch như quả mướp khô.

+ Khoe học múa từ thần Rồng, khoe đã từng đi xéo nát đất đai thiên hạ.

+ Chém Đăm Săn trượt, chém trúng chão cột trâu

+ Đớp trượt miếng trầu của Hơ Nhị.

 

 

 

Dù chiến đấu một mình nhưng được cả Hơ Nhị và

Ông Trời trợ giúp.

Không nhận được sự trự giúp của Hơ Nhị và ông

Trời.

Kết thúc trận chiến; chiến thắng vẻ vang, có thêm nhiều của cải,  tôi tớ, đất đai được mở rộng, tiếng tăm vang xa.

Kết cục:  thua trận thảm hại,  van xin tha mạng, bị

bêu đầu ngoài đường.

→ Đăm Săn ỉà một tù trưởng anh hùng, chiến đấu vì chính nghĩa, có tài năng và sức mạnh phi thường, được cả con người và thần linh ủng hộ.

→ Mtao Mxây đại diện cho kẻ phi nghĩa, xấu xa, không nhận được nhân dân ủng hộ. Hắn phải trả giá đắt cho những hành động phi nghĩa của mình.

Nghệ thuật miêu tả hai nhân vật:

+ Đối lập, tương phản trong xây dựng chân dung hai nhân vật:

 Ngoại hình: không miêu tả ngoại hình >< tập trung miêu tả ngoại hình với khiên, gươm, quần

áo, dáng vẻ như một vị thần…

 Thái độ: bình tĩnh, tự tin, chủ động >< sợ hãi, do dự, lo lắng.

 Lời nói: mạnh mẽ, dứt khoát >< vừa sợ hãi vừa huênh hoang.

 Tài năng: xuất chúng, phi thường >< bất tài, kém cỏi.

 Trợ giúp: được con người và thần linh phù trợ >< không được ai giúp đỡ…

+ So sánh, phóng đại, trùng điệp:

 Khiên tròn như đầu cú, gươm óng ánh như cái cầu vồng, trông dữ tợn như một vị thần.

 Khiên kêu lạch xạch như quả mướp khô.

 Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần nứt rạn, ba đồi tranh bật rễ bay tung…

Bài 4: Vì sao Hơ Nhị và ông Trời lại trợ giúp cho Đăm Săn trong cuộc chiến? Theo anh/chị, sự trợ giúp này có ý nghĩa như thế nào đối với Đăm Săn?

Gợi ý làm bài

Hơ Nhị và ông Trời lại trự giúp cho Đăm Săn trong cuộc chiến vì những lí do sau:

+ Đăm Săn bị cướp vợ, chàng chiến đấu để giành lại vợ, bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ danh dự của một tù trưởng lẫy lừng cũng là đảm bảo sự an toàn cho thị tộc. Như vậy, Đăm Săn chiến đấu vì chính nghĩa.

+ Hơ Nhị đại diện cho con người, ông Trời đại diện cho thần linh. Cả hai lực lượng này đứng về phía

Đăm Săn vì cuộc chiến của chàng là vì chính nghĩa, bảo vệ sự yên vui cho dân làng.

+ Sự trợ giúp này có ý nghĩa đối với Đăm Săn:

+ Nhờ miếng trầu của Hơ Nhị mà sức Đăm Săn tăng lên gấp bội.

+ Nhờ ông Trời mách kế, Đăm Săn mới có thể kết thúc cuộc chiến.

+ Thể hiện sự ủng hộ của cộng đồng với người anh hùng.

Tài năng và sự tự tin không đủ để người anh hùng chiến thắng. Sự trợ giúp của con người và thần linh là những yếu tố quan trọng giúp người anh hùng trở nên mạnh mẽ hơn và giành được thắng lợi quyết định. Tuy nhiên, sự trợ giúp đó chỉ mang tính hỗ trợ, kết quả cuộc chiến vẫn hoàn toàn phụ thuộc vào hành động của người anh hùng. Sự giúp đỡ này thể hiện thể hiện sự ủng hộ của cộng đồng với người anh hùng.

Bài 5: Sau trận chiến, Đăm Săn làm gì đối với dân làng của Mtao Mxây? Thái độ và hành động của dân làng giúp anh/chị hiểu gì về tình cảm của người Ê đê đối với người anh hùng của sử thi?

 

 

Gợi ý làm bài

Sau trận chiến, Đăm Săn đến từng nhà kêu gọi mọi người đi theo mình.

+ Cuộc đối thoại giữa Đăm Săn và tôi tớ: gồm ba nhịp hỏi – đáp. Lần 1: Đăm Săn chỉ gõ vào một nhà trong làng, lần 2 – gõ vào tất cả các nhà, lần 3 – gõ vào mỗi nhà trong làng.

+ Cả ba lần hỏi – đáp cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của nô lệ đối với Đăm Săn.

+ Mọi người cùng Đăm Săn ra về, đông và vui như đi hội.

Ý nghĩa: thể hiện sự thống nhất cao độ giữa quyền lợi, khát vọng của cá nhân anh hùng với quyền lợi, khát vọng của cả cộng đồng. Thể hiện lòng yêu mến, sự tuân phục, suy tôn của tập thể đối với cá nhân người anh hùng.

Bài 6: Phần cuối đoạn trích tác giả dân gian miêu tả cảnh chết chóc hay cảnh ăn mừng chiến thắng? Chỉ

ra ý nghĩa của việc miêu tả cảnh tượng này.

Gợi ý làm bài

Phần cuối đoạn  trích, tác giả  dân gian chủ yếu  miêu tả cảnh ăn mừng chiến thắng tấp nập,  linh đình,

khách khứa đông nghịt, nhiều tù trưởng từ phương xa đến.

Ý nghĩa của việc miêu tả cảnh tượng này:

+ Tuy kể về chiến tranh nhưng nghệ nhân dân gian hướng đến lại là cuộc sống hòa bình, ấm no, thịnh vượng, đoàn kết, thống nhất.

+ Cuộc chiến chỉ đóng vai trò là “bà đỡ lịch sử” cho sự phát triển, lớn mạnh của cộng đồng

Bài 7: Cảm nhận của anh/chị về Đăm Săn trong lễ ăn mừng chiến thắng. Nhân vật được khắc họa thông qua những nghệ thuật nổi bật nào?

Gợi ý làm bài

Hình tượng Đăm Săn trong lễ ăn mừng chiến thắng:

+ Lời nói: là những lời hiệu triệu, ra lệnh đầy quyền uy: “ơ các con”, “ơ các con…”, “hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng”…

+ Ngoại hình: “nằm trên võng”, “tóc thả xuống sàn”, “đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”,

“bắp chân to bằng cây xà ngang”…

+ Trang phục: “ngực quấn một tấm mền chiến”, “mình khoác một tấm áo chiến”, “tai đeo nụ”…

+ Sức mạnh: “nằm sấp thì gãy rầm sàn”, “nằm ngửa thì gãy xà dọc”…

→ Hình tượng Đăm Săn hiện ra lớn lao, kì vĩ, bao trùm lên toàn bộ buổi lễ, bao trùm lên toàn bộ thiên nhiên và xã hội Ê-đê.

Nghệ thuật khắc họa nhân vật: chủ yếu là nghệ thuật liệt kê, so sánh, phóng đại:

+ Liệt kê: “đầu đội khăn nhiễu”, “vai mang vải hoa”, “đánh đâu đập tan đó”, “vây đâu phá nát đó”…

+ So sánh phóng đại: “bắp  chân chàng to bằng  cây xà ngang”, “bắp đùi  chàng to bằng ống bế”, “sức chàng ngang sức voi đực”, “hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy”, “chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn”, “chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc”,…

Bài 8: Theo anh/chị vẻ đẹp của nghệ thuật sử thi thể hiện qua những yếu tố nào? Chọn phân tích một vài câu văn mà anh/chị thấy hấp dẫn, thú vị.

Gợi ý làm bài

Vẻ đẹp của nghệ thuật sử thi thể hiện qua những yếu tố:

+ Hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng.

+ Ngôn ngữ: trang trọng, giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu.

 

 

+ Phép so sánh, phóng đại.

Học sinh có thể lựa chọn một số câu văn có chứa một trong các yếu tố trên để nêu cảm nhận.

Ví dụ:

Cả miền Ê-đê Ê-ga ca ngợi Đăm Săn là một dũng tướng chắc chết mười mươi cũng không lùi bước. Ngực quấn chéo một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre, chàng Đăm Săn hiện ra là một trang tù trưởng mới giàu tên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy. Bắp chân chàng to bằng cây xà ngang, bắp đùi chàng to bằng ống bễ, sức chàng ngang sức voi đực, hơi thở chàng ầm ầm tựa sấm dậy, chàng nằm sấp thì gãy rầm sàn, chàng nằm ngửa thì gãy xà dọc: Đăm Săn vốn đã ngang tàng từ trong bụng mẹ.

+ Đoạn văn miêu tả vẻ đẹp kì vĩ, phi thường, hoành tráng của người anh hùng sử thi với phép so sánh, phóng đại; những câu văn giàu hình ảnh và nhịp điệu.

+ Qua đó, ta thấy được thái độ ngưỡng mộ, ngợi ca của tác giả dân gian với hình ảnh người anh hùng.

Bài 9: Lập bảng  ghi lại những  hình ảnh đậm đà  màu sắc  núi rừng  trong đoạn  trích. Anh/chị  có thích

những hình ảnh này không? Vì sao?

Gợi ý làm bài

Hình ảnh đậm đà màu sắc núi rừng:

+ Hình ảnh ngôi nhà sàn: “Đầu sàn hiên đẽo hình mặt trăng”, “đầu cầu thang đẽ hình chim ngói”; “cầu thang rộng một lá chiếu”, “người nối đuôi nhau lên xuống mà khiêng một chiếc ché đuê vẫn không sợ chật”.

+ Hình ảnh nghi lễ tế thần: “rượu bảy ché”, “trâu bảy con”, “lợn thiến bảy con”, “chiêng trống”, “chuỗi thịt trâu thịt bò treo đầy nhà”, “chậu thau”, “âu đồng nhiều không còn chỗ để”.

+ Trang phục của Đăm Săn: “đầu đội khăn nhiễu”, “vai mang nải hoa”, “ngực quấn chéo một tấm mền chiến”, “mình khoác một tấm áo chiến”, “sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm”,…

Nếu học sinh thích những hình ảnh này, có thể lí giải theo hướng sau:

+ Những hình ảnh đó góp phần nhấn mạnh, tô đậm văn hóa dân tộc.

+ Tạo bầu không khí sử thi cho tác phẩm.

Bài 10: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả Hô-me-rơ và sử thi Ô-đi-xê cũng như đoạn trích Uy-lít-xơ trở về?

Gợi ý làm bài

Học sinh dựa vào phần Kiến thức trọng tâm để trả lời. Bài 11: Hãy tóm tắt nội dung chính của sử thi Ô-đi-xê? Gợi ý làm bài

Tóm tắt nội dung chính của sử thi Ô-đi-xê

Câu chuyện được kể từ thời điểm Uy-lít-xơ sau mười năm rời thành Tơ-roa vẫn chưa thể đặt chân lên quê hương và đang bị nữ thần Ca-líp-xô cầm giữ. Các thần cầu xin Dớt cho Uy-lít-xơ được sum họp với gia đình. Dớt đồng ý. Trong khi đó, tại quê nhà, Pê-nê-lốp, vợ của Uy-lít-xơ, phải đối mặt với nhiều người quyền quý trong vùng đến cầu hôn. Tê-lê-mác, con trai Uy-lít-xơ và Pê-nê-lốp, phải đương đầu với chúng để bảo vệ gia đình. Tuân lệnh Dớt, nữ thần Ca-líp-xô buộc phải để Uy-lít-xơ rời đảo. Sau vài ngày, gặp bão lớn, chiếc bè bị đánh tan tác, Uy-lít-xơ may mắn dạt vào xứ sở của vua An-ki-nô-ốt. Tại đây, Uy-lít- xơ kể lại cuộc hành trình phiêu lưu mạo hiểm trong suốt 10 năm qua các miền đất lạ cho nhà vua. Được An-ki-nô-ốt giúp đỡ, Uy-lít-xơ trở về quê hương sau 20 năm xa cách nơi chàng phải đối mặt với hiểm nguy mới là bọn cầu hôn xảo quyệt, hung hãn đang rắp tâm chiếm đoạt tài sản gia đình. Uy-lít-xơ cùng con trai và gia nhân trung thành lập mưu trừng trị bọn chúng. Cuộc sống mới bắt đầu trên xứ sở Ithaca.

Xem tiếp:  Ngữ văn lớp 10 - Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

 

 

Bài 12: Khi được nhũ mẫu Ơ-ri-clê báo tin Uy-lít-xơ đã trở về, Pê-nê-lốp đang ở trong hoàn cảnh như thế

nào?

Gợi ý làm bài

Học sinh dựa vào phần Kiến thức trọng tâm để trả lời.

Bài 13: Nhũ mẫu đã có những tác động gì đến Pê-nê-lốp? Trước những tác động này Pê-nê-lốp có tâm

trạng và thái độ ra sao?

Gợi ý làm bài

 

Nhũ mẫu

Pê-nê-lốp

– Báo tin: Uy-lit-xơ trở về

– Thuyết phục:

+ Đưa bằng chứng: vết sẹo.

+ Đánh cược bằng tính mạng.

– Không tin, nghi ngờ.

– Phán đoán: một vị thần; Uy-lít-xơ đã chết.

→ Là người thận trọng, chung thuỷ với chồng, luôn tỉnh táo, đề cao

cảnh giác.

– Phân vân, xúc động.

+ Không bác bỏ → thần bí hóa câu chuyện.

+ Xuống lầu: không biết ứng xử như thế nào; lặng thinh; sửng sốt;

đăm đăm, âu yếm…

→ Đoạn đối thoại như là một màn kịch nhỏ thể hiện những xung đột trong tình cảm của Pê-nê-lốp – tô

đậm cá tính: thận trọng, tỉnh táo, biết kìm nén tình cảm.

Bài 14: Tại sao Tê-lê-mác lại trách mẹ tàn nhẫn, độc ác, sắt đá? Pê-nê-lốp có tâm trạng, thái độ gì trước lời trách móc ấy của con trai?

Gợi ý làm bài

Tê-lê-mác trách mẹ tàn nhẫn, độc ác, sắt đá là bởi:

+ Tê-lê-mác đã biết Uy-lít-xơ đích thực là cha mình.

+ Rất thương yêu cha.

+ Nhưng cũng rất nóng nảy, bộc trực và thiếu kiên nhẫn.

Thái độ của Pê-nê-lốp trước những lời trách móc của con trai:

+ Thận trọng giải thích; phân vân cao độ, xúc động.

+ Không thay đổi cách cư xử.

+ Tỉnh táo, khôn ngoan chuẩn bị thử thách chồng.

Bài 15: Việc chọn cách thử “bí mật của chiếc giường” cho thấy vẻ đẹp nào của Pê-nê-lốp? Từ đây, em có

cảm nhận gì về hình tượng nhân vật này?

Gợi ý làm bài

Vẻ đẹp của Pê-nê-lốp qua việc chọn cách thử “bí mật chiếc giường”:

+ Thủy chung với chồng.

+ Sự kiên trinh cũng như sự bền vững trong tình cảm gia đình của nàng.

+ Thông minh và thận trọng để biết đó chính xác là chồng mình.

Cảm nhận chung về hình tượng nhân vật: Pê-nê-lốp là hình tượng phụ nữ đầu tiên trong văn học thế giới: thủy chung, sắt son với chồng, thông minh, thận trọng, khôn ngoan trong cách ứng xử, bản lĩnh vô ngần. Bài 16: Trước sự lạnh nhạt của người vợ, Uy-lít-xơ có thái độ gì?

 

 

Gợi ý làm bài

Thái độ của Uy-lít-xơ trước sự lạnh nhạt của người vợ:

+ Chàng luôn rất yêu thương, thấu hiểu và tin tưởng vợ con: “Thế nào mẹ con cũng nhận ra cha, chắc chắn như vậy”.

+ Nhẫn nại, cao quý và mỉm cười.

+ Sớm nhận ra ý định thử thách của vợ và dù chưa biết là thử thách gì nhưng chàng sẵn sàng chấp nhận

+ Hết sức bản lĩnh, kiềm chế tình cảm để có được sự sáng suốt, chín chắn.

+ Hiểu rõ khả năng của mình, tin vào mình.

Bài 17: Việc vượt qua được thử thách mà người vợ đặt ra đã tô đậm vẻ đẹp nào của người anh hùng Uy- lít- xơ?

Gợi ý làm bài

Vẻ đẹp của người anh hùng Uy-lít-xơ khi vượt qua được thử thách mà người vợ đặt ra:

+ Chàng tự tin giải mã được bí mật, vượt qua thử thách một cách dễ dàng.

+ Tình cảm vợ chòng, gia đình luôn đậm sâu trong chàng dù thời gian 20 năm có khắc nghiệt xảy ra.

+ Thông minh, trí tuệ; nhờ có trí tuệ nhạy bén mà chàng đã vượt qua được thử thách.

Bài 18: Chỉ ra và phân tích tác dụng của biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ cuối của đoạn trích

(Dịu hiền thay mặt đất… không nỡ buông rời).

Gợi ý làm bài

 Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong khổ cuối của đoạn trích (Dịu hiền thay mặt đất… không nỡ

buông rời): so sánh có đuôi dài (so sánh mở rộng), vế so sánh được nói trước, dài hơn.

 Tác dụng: giúp xây dựng hình ảnh cụ thể, sinh động như đòn bẩy nghệ thuật, tạo hiệu quả cho câu văn.

Góp phần diễn tả cụ thể tâm trạng vui sướng vô bờ bến của Pê nê-lốp khi được đoàn viên cùng chồng.

Bài 19: So sánh sử thi Đăm Săn của Việt Nam với sử thi Ô-đi-xê của Hi Lạp.

Gợi ý làm bài

So sánh sử thi Đăm Săn của Việt Nam và sử thi Ô-đi-xê của Hi Lạp:

– Giống nhau:

+ Nhân vật trung tâm đều là những anh hùng hội tụ đầy đủ sức mạnh, trí tuệ của cộng đồng và gắn bó với ước mơ cộng đồng.

+ Đề cao sự tự chủ của con người, thể hiện sự chuyển tiếp từ tư duy thần thoại sang tư duy sử thi.

+ Nhân vật chủ yếu xây dựng trên hành động, đối thoại nên nghệ thuật sử thi giống như các màn kịch đầy kịch tính.

+ Ngôn ngữ giàu nhạc điệu, nhiều hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.

+ Giọng điệu ngợi ca, tự hào.

– Khác nhau:

 

 

Sử thi Đăm Săn

Sử thi ô-đi-xê

Thời đại

– Thời kì chiến tranh thị tộc

→ Khát vọng hòa bình, thịnh vượng.

– Kết   thúc chiến   tranh thị  tộc   và dần chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ.

→ Khát vọng  khám phá, mở  mang bờ

cõi.

Vẻ đẹp  nổi  bật

– Đề cao vẻ đẹp sức mạnh, nhân cách và sự

– Đề cao vẻ đẹp sức mạnh, đặc biệt là vẻ

 

 

 

của    nhân vật

giàu có.

đẹp trí tuệ.

trung tâm

Mối quan hệ với

– Thần linh vẫn chi phối rất nhiều đến con

người.

→ Tư duy văn hóa nông nghiệp: phụ thuộc

và tôn trọng thiên nhiên.

– Uy-lít-xơ dám chống lại những vị thần tối cao.

→ Tư duy văn hóa du mục: muốn chinh

phục và cải tạo tự nhiên.

thần linh

Tình yêu và hôn

– Cuộc hôn nhân theo tục lệ nối dây của thị

– Cuộc hôn nhân trên cơ sở tình yêu một vợ một chồng chung thủy.

– Coi trọng con người cá nhân, con người đời tư.

nhân

tộc.

 

–  Coi trọng   con người  cộng  đồng,   con

 

người tập thể.

 

  1. TẬP LÀM VĂN
  2. LÍ THUYẾT TRỌNG TÂM
  3. LẬP DÀN Ý VĂN BẢN TỰ SỰ
  4. Hình thành ý tưởng, dự kiến cốt truyện

– Ý tưởng

+ Đề tài, chủ đề

+ Hoàn cảnh

+ Nhân vật

+ Mục đích

– Cốt truyện

+ Truyền thống: Trình bày → Triển khai → Phát triển → Đỉnh điểm → Giải quyết → Kết thúc →

+ Hiện đại: Người viết sáng tạo theo ý tưởng của mình

  1. Lập dàn ý

– Khái niệm: Nêu rõ những nội dung chính cho câu chuyện dự định viết

– Quá trình

+ Chọn đề tài

+ Tưởng tượng, phác ra nét chính của cốt truyện

– Bố cục

+ Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh, nhân vật.

+ Thân bài: Sự việc, chi tiết chính theo diễn biến.

+ Kết bài: Cảm nghĩ của nhân vật và chi tiết đặc sắc.

  1. CHỌN SỰ VIỆC, CHI TIẾT TIÊU BIỂU TRONG BÀI VĂN TỰ SỰ
  2. Sự việc

– Định nghĩa: Là những việc làm của nhân vật hoặc những việc xảy ra với nhân vật.

– Sự việc tiêu biểu: Là sự việc quan trọng góp phần hình thành cốt truyện.

  1. Chi tiết

 

 

– Định nghĩa: Là một lời nói, một cử chỉ, hành động của nhân vật hoặc một sự vật, một hình ảnh thiên nhiên, một nét chân dung.

– Chi tiết tiêu biểu: Là chi tiết góp phần khắc họa rõ nét tính cách nhân vật và tạo bước ngoặt góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm.

  1. Vai trò

– Dẫn dắt, tạo sự hấp dẫn cho câu chuyện.

– Tô đậm đặc điểm, tính cách của nhân vật.

– Góp phần thể hiện ý nghĩa, chủ đề của văn bản.

  1. BÀI TẬP CỦNG CỐ

Bài 1: Cho các sự việc sau đây, anh/chị hãy sắp xếp theo đúng trình tự của truyện và cho biết truyện được kể theo ngôi thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể đó.

(1) Sau đó, Tê-lê-mác rất ngạc nhiên khi Pê-nê-lốp đưa ra phép thử là chiếc giường làm bằng gốc ô-liu do chính tay Uy-lít-xơ đóng. Từ đó, Pê-nê-lốp mới dám tin người đó thực sự là chồng mình.

(2) Tê-lê-mác rất vui sướng khi Uy-lít-xơ trở về và trừng trị bọn cầu hôn. Sau đó, Uy-lít-xơ đi với Tê-lê- mác đến gặp Pê-nê-lốp.

(3) Tê-lê-mác vui sướng khi thấy bố mẹ mình đoàn tụ hạnh phúc. Hai người cùng khóc vì được trở về bên nhau.

(4) Mặc dù nhũ mẫu Ơ-ri-clê và Tê-lê-mác cùng khẳng định Uy-lít-xơ đã trở về nhưng Pê-nê-lốp vẫn không tin vì nàng cho rằng đó là một thần linh nào cải trang. Tê-lê-mác thấy vậy bèn lên tiếng trách móc mẹ mình có trái tim quá sắt đá.

Gợi ý làm bài

Trình tự đúng của truyện (2) – (4) – (1 ) – (3).

Theo trình tự chuỗi sự việc trên truyện được kể theo ngôi thứ ba, nhân vật Tê-lê-mác là người kể chuyện. Sử dụng ngôi kể này giúp cho câu chuyện trở nên khách quan, người kể giấu mặt nhưng có mặt khắp mọi nơi trong văn bản.

Bài 2: Đọc câu chuyện sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

Xưa có anh học trò học hành dốt nát, nhưng trò đời “xấu hay làm tốt, dốt hay khoe chữ”, đi đâu cũng lên

mặt văn hay chữ tốt.

Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ.

Một hôm, dạy sách “Tam thiên tự”, sau chữ “tước” là chim sẻ đến chữ “kê” là gà, thầy thấy mặt chữ nhiều nét rắc rối, không biết chữ gì, học trò lại hỏi gấp, thầy cuống nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Thầy cũng khôn, sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, mới bảo học trò đọc khe khẽ. Tuy vậy trong lòng vẫn thấp thỏm.

Nhân trong nhà có bàn thờ Thổ công, thầy mới đến khấn thầm, xin ba đài âm dương để xem chữ ấy có

phải là “dù dì” không. Thổ công cho ba đài được cả ba.

Thấy vậy thầy đắc chí lắm, hôm sau bệ vệ ngồi trên giường, bảo học trò đọc to. Trò vâng lời thầy, gân cổ

lên gào:

– Dủ dỉ là con dù dì! Dủ dỉ là con dù dì…

Bố chúng đang cuốc đất ngoài vườn, nghe tiếng đọc, ngạc nhiên, bỏ cuốc chạy vào, giở sách ra xem hỏi thầy:

 

 

– Chết chửa! Chữ “kê” là gà, sao thầy lại dạy là “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ thầy mới nghĩ thầm: “Mình đã dốt, Thổ công nhà nó cũng dốt nữa”, nhưng nhanh trí, thầy vội nói

gỡ:

– Tôi vẫn biết chữ ấy là chữ “kê” mà “kê” nghĩa là gà, nhưng tôi dạy cháu thế là để nó biết tận tam đại con gà cơ. Nhà chủ càng không hiểu, hỏi:

– Tam đại con gà nghĩa là sao?

– Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà.

(Tam đại con gà, Ngữ văn 10, tập 1 )

  1. Anh/chị hãy rút ra dàn ý cho câu chuyện trên.
  2. Cũng từ câu chuyện này, anh/chị viết thêm phần kết cho câu chuyện.

Gợi ý làm bài

  1. Rút ra dàn ý:

– Mở bài: Giới thiệu nhân vật anh học trò dốt mà lại hay khoe chữ.

– Thân bài:

+ Có người tưởng anh ta hay chữ nên đón về dạy trẻ.

+ Một hôm, dạy đến chữ “kê”, học trò hỏi mà không biết, anh ta đành nói liều “Dủ dỉ là con dù dì”.

+ Anh ta sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, dặn học trò đọc khẽ và đến bàn thờ thổ công xin ba đài âm

dương.

+ Xin ba đài âm dương đều được, anh ta đắc chí hôm sau bảo học trò đọc to lên.

+ Người bố nghe thấy, phát hiện ra cái sai của anh ta, anh ta liền chống chế bằng cách lý sự cùn, dạy thế để biết đến tam đại con gà.

– Kết bài: không có. b. Viết kết bài

Có thể viết theo những hướng sau:

 Chủ nhà nghe thấy cũng bán tín bán nghi, hôm sau vác sách đi hỏi thầy đồ khác. Biết rằng mình đúng, tức giận chủ nhà đuổi thầy đi. Từ đó, anh học trò ấy không bao giờ dám khoe chữ nữa.

 Chủ nhà tin theo, cũng gật gù cho phải. Anh học trò đắc chí, liền vênh mặt lên dạy tiếp. Sau lần đó, con chủ nhà đi thi. Chúng viết lại y nguyên những lời anh học trò dốt dạy. Quan trên lấy làm lạ và tức giận về những sự vô lý trong bài thi, bèn truyền gọi đến để hỏi. Cuối cùng anh học trò, bị đánh năm mươi trượng và phải đền bù hoàn toàn số tiền chủ nhà bỏ ra cho con học.

Cũng có thể viết kết bài theo một hướng khác tùy vào sự sáng tạo của từng người nhưng phải phù hợp với

logic của câu chuyện.

Bài 3: Cho văn bản sau

CON SẺ

Tôi đi săn về và đi dọc lối vào vườn. Con chó chạy trước tôi. Chợt nó dừng chân và bắt đầu bò, tuồn như đánh hơi được vật gì. Tôi nhìn dọc lối đi và thấy một con sẻ non mép vàng óng, trên đầu có một nhúm lông tơ. Nó rơi từ trên tổ xuống. Con chó săn lại gần, chậm rãi. Bỗng một con sẻ già có bộ ức đen nhánh, từ một cái cây gần đó lao xuống như một hòn đá ngay trước mõm nó. Lông dựng ngược, thét lên một tiếng tuyệt vọng và thảm thiết, con sẻ nhảy hai ba bước về phía cái mõm há rộng đầy răng. Con sẻ già lao đến cứu con, thân mình phủ kín sẻ con, nhưng cả người nó run lên vì khiếp sợ. Cái giọng nhỏ bé của nó nghe hung dữ và khản đặc: nó tê dại đi vì hãi hùng, nó sẽ hi sinh, trước mắt nó là con chó như một con

 

 

quỉ khổng lồ. Dầu sao thì sẻ già vẫn có thể náu kín trên cành cây cao và chắc chắn kia. Song một sức mạnh lớn hơn ý muốn của nó đã cuốn nó xuống đất.Con chó của tôi dừng lại và lùi… Phải hiểu cho nó, nó cũng biết là đằng trước nó có một sức mạnh. Tôi vội lên tiếng gọi con chó đang bối rối ấy và tôi lánh xa, lòng đầy thán phục.

Vâng, lòng tôi đầy thán phục, xin bạn chớ cười. Tôi kính cẩn nghiêng mình trước con chim sẻ bé bỏng dũng cảm kia, trước tình yêu của nó.

 

 

  1. Xác định đề tài và chủ đề của văn bản.

(Truyện ngắn Ivan Turgenev, tr. 54, NXB Văn học, 1998)

 

 

  1. Trong truyện, nhân vật nào là nhân vật chính? Nhân vật nào là nhân vật phụ?
  2. Hoàn cảnh mà con chim sẻ già phải đối mặt trong văn bản là gì?
  3. Thông điệp của văn bản là gì?

Gợi ý làm bài

  1. Đề tài: Những phẩm chất tốt đẹp

Chủ đề: Lòng dũng cảm, tình yêu thương.

  1. Nhân vật chính: con chim sẻ già

Nhân vật phụ: con chim sẻ non, con chó săn.

  1. Hoàn cảnh con chim sẻ già phải đối mặt:

 Con chim sẻ non bị rơi xuống đất.

 Con chó săn lại gần có ý định làm hại con chim sẻ non.

 Con chó săn rất hung dữ và con chim sẻ già cũng vô cùng sợ hãi. d. Thông điệp:

Tình yêu thương giúp con người có sự dũng cảm, giúp con người vượt lên trên nỗi sợ hãi và làm được những điều phi thường.

Bài 4: Lập dàn ý cho đề bài: “Kể về một việc làm tốt của em”

Gợi ý làm bài

  1. Hình thành ý tưởng và dự kiến cốt truyện

 Đề tài: Phẩm chất tốt đẹp của con người.

 Chủ đề: Việc làm tốt.

 Nhân vật: Chính bản thân mình.

 Hoàn cảnh: Đặt chính mình vào một hoàn cảnh đặc biệt (có tình huống, có sự việc) để nảy sinh việc tốt.

 Mục đích: Chia sẻ kỷ niệm, nêu cao việc làm tốt, khích lệ người khác làm việc tốt.

  1. Lập dàn ý

Dự kiến cốt truyện: cứu người đuối nước, đưa một bạn (em nhỏ) vô tình gặp trên đường về nhà, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn…

Dự kiến bố cục:

+ Mở bài: Giới thiệu hoàn cảnh nảy sinh việc làm tốt.

+ Thân bài:

Xem tiếp:  Ngữ văn lớp 10 - Tổng kết phần văn học

 Diễn biến sự việc:

 Bắt đầu: sự việc bắt đầu từ đâu?

 Diễn biến: sự việc diễn ra như thế nào?

 

 

 Cao trào: đỉnh điểm của sự việc là gì?

 Kết thúc: sự việc kết thúc như thế nào? (Lưu ý: vừa kể, vừa miêu tả hành động tâm lý của bản thân và

người được giúp đỡ, vừa bộc lộ cảm xúc của mình).

 Cảm nghĩ sau khi làm được việc tốt ấy.

+ Kết bài: Suy nghĩ về việc làm tốt của mình.

Bài 5: Từ bài thơ sau của Trần Đăng Khoa, em hãy dự kiến một cốt truyện và lập dàn ý cho cốt truyện ấy.

Bác Giun đào đất suốt ngày Trưa nay chết dưới gốc cây sau nhà Họ hàng nhà kiến kéo ra

Kiến con đi trước, kiến già theo sau

Cầm hương, kiến Đất bạc đầu.

Khóc than, kiến Cánh khoác màu áo tang

Kiến Lửa đốt đuốc đỏ đàng

Kiến Kim chống gậy, kiến càng nặng vai

Đám tang đi đến là dài

Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà

Kiến Đen uống rượu la đà

Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần.

(Đám ma bác Giun, Trần Đăng Khoa)

Gợi ý làm bài

  1. Mở bài: Giới thiệu bác Giun và xóm Đất.
  2. Thân bài:

 Cuộc sống của các thành viên nơi xóm Đất.

 Con người của bác Giun và tình cảm của mọi người dành cho bác.

 Bác Giun chết bất ngờ, cả xóm tiếc thương bàng hoàng.

 Đám tang bác Giun diễn ra rất xúc động.

 Đám tang ấy thể hiện sự thương tiếc bác Giun cũng như là con người, lối sống cao đẹp của bác khiến

cho mọi người đều phải đau xót.

  1. Kết bài: Suy nghĩ về lối sống đẹp thông qua hình ảnh bác Giun và những người yêu quý bác.

Bài 6: Lập dàn ý cho đề bài:

Nhập vai nhân vật Trọng Thủy để kể lại truyện Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy.

Gợi ý làm bài

  1. Mở bài:

Cách 1: Giới thiệu trực tiếp mình tên là Trọng Thủy, con trai của Triệu Đà.

Cách 2: Không giới thiệu tên tuổi mà giới thiệu bằng suy nghĩ của nhân vật về trách nhiệm là con trai của

Triệu Đà trước âm mưu xâm lược Âu Lạc.

  1. Thân bài:

 Dò la tin tức về việc Âu Lạc lo phòng chống âm mưu xâm lược của Triệu Đà (kể xen miêu tả tâm trạng

suy nghĩ: lo lắng, nóng lòng muốn phá tan kế hoạch của Âu Lạc).

 

 

 Để có được Triệu Đà, Trọng Thủy nghe theo lời sắp đặt của vua cha đi cầu hôn Mị Châu – con gái của vua An Dương Vương (tâm trạng hồi hộp, muốn tìm cách nhanh chóng đánh bại Âu Lạc, không mảy may quan tâm đến Mị Châu).

 Trong thời gian sống ở Âu Lạc, bên cạnh tìm cách phá vỡ sự phòng thủ của Âu Lạc, Trọng Thủy bị rung động thực sự trước tình cảm của Mị Châu (tâm trạng khó xử khi một bên là nhiệm vụ của quốc gia với lời vua cha liên tục thôi thúc, một bên là tình cảm sâu nặng với người vợ thủy chung hết lòng vì mình).

 Những căng thẳng khi nịnh Mị Châu cho xem trộm nỏ thần và đánh tráo nó.

 Tâm trạng dằn vặt khi trót lừa Mị Châu xen lẫn những trăn trở về nghĩa vợ chồng khi cách xa và hai

nước thất hòa.

 Mang nỏ thần về Triệu Đà với tâm trạng bồn chồn lo lắng cho Mị Châu trước một cuộc chiến tranh sắp xảy ra giữa hai nước.

 Một mặt vẫn giúp vua cha thực hiện kế hoạch, mặt khác lại tìm cách liên lạc với Mị Châu để ngầm báo và đón Mị Châu đi trốn nhưng kế hoạch thất bại.

 Cuối cùng, chiến tranh kết thúc, theo dấu lông ngỗng, Trọng Thủy tìm thấy xác Mị Châu bên bờ biển.

 Đau đớn, Trọng Thủy ôm xác đi chôn cất với những lời lẽ thú tội muộn màng.

 Kể từ đó, cho dù đã có được Âu Lạc và lên ngai vàng nhưng Trọng Thủy vẫn nhớ đến Mị Châu khôn nguôi.

 Một hôm, dạo chơi trong vườn uyển, nhìn xuống giếng trong, tương tư tưởng bóng Mị Châu dưới nước, Trọng Thủy liền nhảy xuống giếng.

  1. Kết bài: Lời xin lỗi của Trọng Thủy.

Bài 7: Đọc văn bản sau và trả lời các câu hỏi

Có một con ếch sống lâu ngày trong một giếng nọ. Xung quanh nó chỉ có vài con nhái, cua, ốc bé nhỏ. Từ dưới đáy giếng nhìn lên, ếch ta chỉ thấy một khoảng trời bé bằng cái vung. Nó nghĩ: Tất cả vũ trụ chỉ có vậy, vì thế ếch tự coi mình là chúa tể. Hằng ngày nó cất tiếng kêu ồm ộp làm vang động cả giếng, khiến các con vật kia rất hoảng sợ. Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung và nó thì oai như một vị chúa tể.

Một năm nọ, trời mưa to làm nước trong giếng dềnh lên, tràn bờ, đưa ếch ta ra ngoài. Quen thói cũ, ếch nhâng nháo nhìn lên trời, nó bỗng thấy cả một bầu trời rộng lớn hơn nhiều so với cái khoảng trời nó vẫn thấy. Ếch ta không tin và thấy bực bội vì điều đó. Để ra oai, nó cất tiếng kêu ồm ộp. Vị chúa tể hy vọng là sau những tiếng kêu của mình, mọi thứ phải trở lại như cũ. Nhưng bầu trời vẫn là bầu trời. Còn con ếch vì mải nhìn lên trời đã không chú ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp.

(Ếch ngồi đáy giếng)

  1. Xác định sự việc của văn bản trên.
  2. Sự việc nào được coi là sự việc tiêu biểu và chi tiết nào được coi là chi tiết tiêu biểu? Sự việc và chi tiết

tiêu biểu ấy góp phần thể hiện tính cách gì của nhân vật và nội dung tư tưởng của tác phẩm?

Gợi ý làm bài

  1. Các sự việc:

 Ếch sống lâu trong đáy giếng, tưởng trời chỉ bé bằng cái vung nên ra oai với các loài vật.

 Hằng ngày, nó cất tiếng kêu ra oai khiến các loài vật khác hoảng sự.

 Trời mưa to, nước giếng dềnh lên đưa ếch ra ngoài miệng giếng.

 Ếch không tin bầu trời rộng lớn nên cất tiếng kêu ra oai.

 

 

 Ếch bị con trâu đi qua dẫm bẹp.

  1. Sự việc tiêu biểu:

+ Ếch tưởng bầu trời bé bằng cái vung nên ra oai với các loài vật.

+ Trời mưa to, nước giếng dềnh lên đưa ếch ra ngoài miệng giếng.

Chi tiết tiêu biểu:

+ Nó nghĩ: Tất cả vũ trụ chỉ có vậy, vì thế ếch tự coi mình là chúa tể.

+ Còn con ếch vì mải nhìn lên trời đã không chú ý đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp.

Sự việc và chi tiết tiêu biểu trên đã góp phần tô đậm tính cách tự cao tự đại của nhân vật ếch, thể hiện ý

nghĩa của câu chuyện đó là phê phán tính tự cao tự đại, khuyên con người ta cần biết khiêm tốn.

Bài 8: Xác định các sự việc và chi tiết tiêu biểu của truyện ngắn Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)

Gợi ý làm bài

Sự việc và chi tiết tiêu biểu:

 Sự việc bé Thu nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba. Chi tiết: bé Thu hất cái trứng cá mà ông Sáu

gắp ra khỏi bát, nói trổng với ông Sáu.

 Sự việc bé Thu nhận ra ông Sáu là ba. Chi tiết vết sẹo trên má ông Sáu và chi tiết bé Thu chạy lại ôm hôn ông Sáu trước khi lên đường đi chiến đấu.

 Sự việc ông Sáu ở chiến trường nhớ thương con. Chi tiết ông làm chiếc lược ngà để tặng con.

Bài 9: Cho đề bài: “Kể về một kỉ niệm đáng nhớ của em với người thân”. Xác định các sự việc cần kể, sự việc chi tiết tiêu biểu.

Gợi ý làm bài

 Kỉ niệm đó là gì? Với ai? Để lại ấn tượng gì sâu sắc trong lòng em?

 Các sự việc kể diễn ra theo trình tự thời gian: có sự việc bắt đầu, sự việc diễn biến, sự việc cao trào và

sự việc kết thúc.

 Sự việc tiêu biểu và chi tiết tiêu biểu thường nằm ở sự việc cao trào

Bài 10: Truyện Tấm Cám có những sự việc nào?

Gợi ý làm bài

Các sự việc:

+ Ngày xưa, Tấm hiền lành chăm chỉ, xinh đẹp, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, phải sống với dì ghẻ và cô em cùng cha khác mẹ tên là Cám.

+ Tấm luôn bị mẹ con Cám ghen ghét và ngược đãi:

 Tấm bị Cám lừa trút hết giỏ tép của mình sang giỏ của Cám để Cám giành chiến công được cái yếm đỏ

 Biết Tấm nuôi cá bống, mẹ con Cám đã lừa Tấm giết thit cá bống, cướp đi nỗi niềm bầu bạn của Tấm

 Ngày hội, dì ghẻ trộn gạo lẫn thóc bắt Tấm phải ở nhà nhặt xong mới được đi xem hội.

+ Mỗi lần Tấm bị mẹ con Cám ngược đãi, Tấm đều được Bụt hiện lên giúp đỡ:

 Bụt bảo Tấm nuôi con cá bống cho có bạn.

 Bụt bảo Tấm chôn xương cá bống để đến ngày hội Tấm có quần, giày đẹp đi chơi hội.

 Bụt sai chim sẻ nhặt thóc cho Tấm.

+ Tấm đi xem hội, đến chỗ lội, đánh rơi một chiếc giày xuống nước. Nhờ chiếc giày đánh rơi, Tấm được

vua biết đến và lấy làm vợ.

 

+ Tấm về giỗ cha. Mẹ con Cám đã lập mưu giết Tấm rồi đưa Cám vào thay thế Tấm.

+ Tấm chết hóa thành chim vàng anh. Chim vàng anh bị Cám giết lại hóa thành cây xoan đào. Khi Cám chặt cây xoan đào đóng thành khung cửi thì mỗi khi dệt cửi, con ác bằng gôc trên khung cửi lại kêu “Cót ca cót két. Lấy tranh chồng chị/ Chị khoét mắt ra”. Cám đốt khung cửi đổ tro ở nơi xa, từ đống tro mọc lên một cây thị lớn, chỉ có một quả. Một bà cụ bán hàng nước được quả thị, mang về nhà.

+ Mỗi khi bà cụ đi vắng, một cô gái – Tấm từ quả thị chui ra dọn dẹp nấu ăn giúp bà cụ.

+ Một hôm, vua đi chơi ghé vào quán nước của bà cụ. Nhờ miếng trầu, vua đã gặp lại Tấm và đưa Tấm về

cung.

+ Tấm trở lại hạnh phúc bên vua còn mẹ con Cám phải trả giá một cách đích đáng: Cám bị dội nước sôi

chết. Thấy Cám chết, mụ dì ghẻ cũng lăn đùng ra chết.

Bài 11: Tìm các sự việc được kể trong đoạn sau và cho biết đâu là sự việc và chi tiết tiêu biểu:

Mẹ tôi là người hiền lành, nhu nhược, thích sống ỷ lại phụ thuộc. Bà quá tin vào sự bất biến của tình yêu, tình thương của người chồng, đã từng hụt bước một lần suýt chết vì sự cả tin ấy. Bài học đáng lẽ phải nhớ đời mà đến mau quên. Vì bà nghĩ rằng có người chồng xấu và có người chồng tốt. Lúc ăn ở với nhau người chồng nào chả tốt, chả có những biểu hiện cảm động về sự hi sinh và lòng chung thủy. Bà ngoại tôi thì khác, là một người đàn bà hoàn toàn khác. Cụ chỉ tin có chính mình, tháo vát và quyết đoán. Cụ lấy chồng năm mười hai tuổi, sinh con đầu lòng năm mười ba tuổi, sống với ông tôi được mười năm, đẻ chín người con, mẹ tôi là con gái út thì cụ góa chồng. Cụ bán nhà bán ruộng ở quê lên Hà Nội kiếm sống. Ba mươi năm sau cụ đã tạo dựng được một đại gia đình bề thế ở đất kinh kỳ. Mà không nhờ một ai cả, không chịu ơn một ai cả, tự mình quyết định mọi việc. Nhưng cụ còn là một bà già độc tài. Mẹ đã ra lệnh, có lúc sai lúc đúng nhưng các con của bà phải nhất nhất tuân theo, cấm cãi. Năm mẹ tôi đã ngót bốn mươi, tôi đã mười ba còn được chứng kiến bà ngoại bắt mẹ nằm dài trên tấm ngựa vừa đánh roi, vừa kể tội như đánh đứa trẻ. Ấy là bà tôi đã thương mẹ tôi nhiều lắm vì đứa con gái út có số phận hẩm hiu nhất trong chín người con của cụ. Bà tôi có vốn riêng, không nhiều cũng không ít, đến ở với con nào cụ cũng đều đưa tiền ăn, mọi sự mua sắm, quà cáp đi chơi, đi lễ đều là tiền của cụ. Cụ sống với mỗi con một năm, sống với mẹ tôi nhiều năm hơn. Cụ ở đâu thì người chủ gia đình là cụ, các con các cháu làm gì đều phải trình bẩm, làm trái ý thì cứ việc nằm dài ra nhận đòn đau.

 

 

Gợi ý làm bài

– Các sự việc:

+ “mẹ tôi” là người hiền hành, nhu nhược, thích sống ỷ lại phụ thuộc.

+ “bà ngoại tôi” tháo vát, quyết đoán:

(Mẹ và bà ngoại, Nguyễn Khải)

 

 Chồng chết, bán nhà bán ruộng đem đàn con lên Hà Nội lập nghiệp.

 Ba mươi năm sau tạo dựng được một gia đình bề thế ở đất kinh kỳ.

+ Bà ngoại còn là một người độc tài:

 Bắt các con phải nghe theo bà.

 Năm mẹ tôi đã ngót bốn mươi, tôi đã mười ba còn được chứng kiến bà ngoại bắt mẹ nằm dài trên tấm ngựa vừa đánh roi, vừa kể tội như đánh đứa trẻ.

 Đến ở với con nào bà cũng bỏ tiền chi tiêu tất cả.

 Bà ở đâu là làm chủ gia đình đó.

– Sự việc và chi tiết tiêu biểu:

+ Bà ngoại bán nhà quê lên Hà Nội một mình mưu sinh nuôi một đàn con

 

 

+ Là người độc tài, bắt các con phải nghe theo, không nghe theo thì đánh đòn cho dù còn trẻ hay đã già.

Bài 12: Với đề bài và dàn ý sau, chi tiết nào là chi tiết tiêu biểu cần kể tập trung?

 Đề bài: Tưởng tượng mình là nhân vật Pê-nê-lốp, em hãy kể lại chuyện Uy-lít-xơ trở về (trích sử thi Ô-

đi-xê).

 Dàn ý: Truyện kể theo ngôi thứ nhất xưng “tôi” người kể là Pê-nê-lốp, vừa kể vừa miêu tả và bộc lộ cảm xúc suy nghĩ của nhân vật.

 Các sự việc chính:

(1) Pê-nê-lốp tái hiện lại hoàn cảnh mình đã trải qua: chờ chồng 20 năm đằng đẵng, không còn hi vọng chồng trở về; bọn cầu hôn thúc bách tái giá và không còn cơ hội trì hoãn nữa, vì vậy Pê-nê-lốp buộc phải ra điều kiện thi bắn cung để đối phó với chúng.

(2) Khi được nhũ mẫu báo tin Uy-lít-xơ đã trở về, Pê-nê-lốp không tin. Trước chứng cớ là bọn cầu hôn đã bị giết, Pê-nê-lốp lí giải đó là sự nổi giận của thần linh trước hành động nhuốc nhơ. Bước xuống nhà, trông thấy chồng, mâu thuẫn giữa tình cảm và lí trí diễn ra trong lòng.

(3) Trước lời trách cứ của con trai, sự sáng suốt của lí trí trở lại, Pê-nê-lốp nói với con nhưng mục đích lại hướng về phía Uy-lít-xơ.

(4) Ngồi trên chiếc ghế đối diện với Uy-lít-xơ sau khi chàng đã tắm xong, đẹp như một vị thần, tâm trạng của Pê-nê-lôp lại càng sáng suốt, nàng đã đưa ra tình huống thử thách đối với chồng.

(5) Khi mọi hoài nghi đã qua, thử thách đã giúp nàng nhận ra chính xác người chồng thân yêu của mình,

Pê-nê-lốp mới thể hiện trực tiếp tình cảm nỗi xúc động, nhớ thương suốt bao năm.

Gợi ý làm bài

Chi tiết (2) và (4) sẽ là chi tiết tiêu biểu cần kể tập trung vì đó là chi tiết nói lên tình cảm, suy nghĩ, tính cách và trí tuệ của Pê-nê-lốp.

  1. HỆ THỐNG BÀI TẬP TỰ LUYỆN

Bài 1: Kể tên những nhạc cụ của người Ê đê mà anh/chị biết. Tìm hiểu thêm những nét đặc trưng riêng

của văn hóa Tây Nguyên?

Bài 2: Người Ê-đê xưa gửi gắm ước mơ qua hình tượng người anh hùng của cộng đồng. Theo anh/chị, những bộ phim siêu anh hùng thời hiện đại có gửi gắm ước mơ, khát vọng nào của con người hiện nay không? Hãy nói về một nhân vật siêu anh hùng mà anh chị yêu thích.

Bài 3: Dựa vào cách viết của sử thi Đăm Săn, viết một đoạn văn ngắn (khoảng 10 câu), trong đó có sử dụng nghệ thuật so sánh và phóng đại.

Bài 4: Tìm đọc sử thi I-li-át cũng như toàn văn sử thi Ô-đi-xê và so sánh hai sử thi này với nhau.

Bài 5: Nghệ thuật sử thi Hi Lạp được thể hiện như thế nào qua đoạn trích Uy-lít -xơ trở về?

Bài 6: Qua đoạn trích Uy-lít -xơ trở về cũng như hiểu biết và trải nghiệm của bản thân, trình bày suy nghĩ của em về vai trò của trí tuệ trong cuộc sống?

Bài 7: Văn bản tự sự sau kể về nhân vật nào? Kể theo ngôi thứ mấy? Tác dụng của ngôi kể ấy. Em hãy rút ra dàn ý cho bài văn tự sau:

Với tư cách là con trai của hoàng đế trị vì một đất nước lớn hùng mạnh – Triệu Đà, ta chưa hao giờ có thể tưởng tượng được lại thất bại dưới tay Âu Lạc nhỏ bé một cách thê thảm đến như thế.

Xem tiếp:  Ngữ văn lớp 10 - Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy

Trên đường thất bại trở về, ta vén tấm màn lên rồi nhìn ra ngoài. Qua khung cửa nhỏ của xe ngựa, ta vẫn

nhìn thấy xác chất đầy chồng lên nhau, máu nhuộm đỏ cả một vùng và ta thấy những lá cờ của nước ta

 

 

rách nát, nằm rải đầy trên con đường lẫn với máu và những binh sĩ đã chết. Vua cha ta đã rất tức giận khi thua dưới tay của An Dương Vương. Người gần như phá tan cả nội điện, thậm chí vị tướng quân sống sót quay trở về cũng bị chém đầu. Gương mặt Người bừng đỏ, ánh mắt tỏa ra sát khí và ta hiểu rằng Người đang suy tính một việc gì đó quan trọng trong đầu. Người đột nhiên gọi ta lên và bảo tất cả triều thần lui ra ngoài, khi chỉ còn ta và Người giữa đại điện rộng lớn, Người ném xuống cho ta một cái nỏ rất bình thường. Người nói rằng có kẻ đưa tin là An Dương Vương có nỏ thần nên mới thắng và sai ta đi lấy cái nỏ thần đấy về. Hôm sau, vua cha cầu hòa với An Dương Vương và đưa ta sang Âu Lạc làm phò mã và ở rể bên đấy. Với tư cách là một bề tôi và cũng là con trai của vua cha, ta chỉ có thể tuân lệnh Người.

Sau nhiều ngày đi bằng xe ngựa, mang theo cờ trắng rủ cuối cùng ta cũng đã đặt chân vào được Loa Thành. Quả thực, lần đầu tiên ta thấy một thành trì vững chãi đến thế! Thành này rộng hơn ngàn trượng, xoắn như hình trôn ốc, tường thành cao và kiên cố đồn rằng An Dương Vương nhờ có sự giúp đỡ của sứ Thanh Giang mới xây được. Ta chợt nghĩ, thành kiên cố như vậy thì kể cả không có nỏ thần thì quân ta cũng chưa chắc sẽ nắm được phần thắng. Ta đi vào đại điện theo sau là tùy tùng khiêng những hòm châu báu, vàng bạc. Ở nơi cao nhất trong đại điện là ngai vàng – nơi An Dương Vương đang ngự, đứng phía dưới là các triều thần và bọn chúng đang nhìn ta với con mắt đầy hả hê của một kẻ chiến thắng trước kẻ bại trận. Đám ngu thần ấy chúng còn nói thầm với nhau điều gì đó có lẽ là miệt thị và giễu cợt ta khiến ta vô cùng tức giận. Nhưng rồi, lý trí đã giúp ta lấy lại được vẻ bình tĩnh nho nhã của một kẻ đến cầu hôn để che giấu đi cơn giận dữ đang như lửa đốt trong lòng. Ta dừng lại trước mặt An Dương Vương rồi quỳ xuống để hành lễ:

– Thưa Thục Phán An Dương Vương, thần thay mặt vua cha và đất nước mình đến đây để tỏ lòng hiếu hòa, muốn kết duyên cùng công chúa Mị Châu để minh chứng cho lòng chân thành muốn kết giao hòa hữu hai nước muôn đời.

An Dương Vương thấy vậy đắc chí:

– Được! Hãy đứng lên! Ta đã đồng ý ngỏ ý cầu hòa của Triệu Vương. Ta mong từ nay về sau, hai nước sẽ không còn giao tranh và đổ máu thêm nữa để nhân dân hai nước  muôn đời hưởng  thái bình thịnh trị. Khanh mau lui xuống nghỉ ngơi, có người sẽ sắp xếp chỗ nghỉ.

Ta phủi áo đứng dậy trong lòng muôn phần khó chịu bởi ta đường đường là hoàng tử của một nước lớn lại phải nuốt nhục quỳ dưới vua của một nước nhỏ bé như Âu Lạc, làm sao ta chịu nổi khi lòng tự tôn của ta rất lớn?

Từ hôm sang Âu Lạc ta ở lại luôn để chuẩn bị làm hôn lễ mà không quay về nước nữa bởi lẽ ta muốn tranh thủ thời cơ lúc Âu Lạc lo việc lớn mà không để ý sẽ dò la tin tức về vũ khí bí mật. Mấy ngày sau, trong cung luôn bận rộn, kẻ đi lại nhiều tấp nập để chuẩn bị hôn lễ cho ta và công chúa. Cuối cùng ngày đó cũng đã đến. Theo tục lệ ta không được phép nhìn mặt tân nương trước đêm tân hôn nên khi vén tấm lụa đỏ thêu phượng hoàng lên, ta có phần ngỡ ngàng. Nàng rất xinh đẹp, gương mặt nhỏ nhắn thanh tú như một búp sen, đôi mắt to tròn như một tấm gương phản chiếu sự trong sáng và thuần khiết, mái tóc nàng dài và đen được búi một cách tỉ mỉ và gài thêm một chiếc trâm bằng ngọc trai. Vẫn biết mục đích của cuộc hôn nhân này là gì nhưng ta không thể không phủ nhận rằng trái tim ta đã rung động trước nhan sắc và vẻ đẹp trắng trong của nàng. Nhưng ta lại chợt thấy tiếc nuối và có phần hơi day dứt vì có lẽ nào ta lại đang tâm đẩy người con gái ngây thơ này vào một mưu đồ toan tính sắp tới. Trời ơi! Ta không biết nghĩ sao cho phải nhưng ta thực sự đã say lòng trước nàng.

Cuộc sống nơi đây không hề tệ như ta vốn nghĩ. Ta cảm thấy tâm tư mình thay đổi ít nhiều khi ở cạnh Mị Châu, ở cạnh nàng khá lâu, ta luôn cảm thấy rất ấm áp và vui vẻ, khác hẳn với những ngày tháng bên vua cha, lúc nào ta cũng cảm thấy bức bối căng thẳng bởi những toan tính và thất bại. Bát canh yến hạt sen mà nàng nấu cho dù không được ngon như những món sơn hào hải vị ta từng được thưởng thức nhưng ta lại

 

 

luôn mong được ăn bát canh ấy mỗi ngày. Càng ngày ta lại càng thấy ta mâu thuẫn, Mị Châu vốn chỉ là một người con gái ngây thơ, trong sáng, vì yêu ta thật lòng mà nàng luôn tin vào lời ta nói mà chẳng hề thắc mắc. Ta cảm thấy có lỗi khi đã đẩy nàng vào những toan tính mưu đồ của cha ta và cuộc chiến này. Nhưng! Tình cảm cũng chỉ là một thứ hư vô, yếu đuối – cha ta đã dạy ta như vậy, nên dù thế nào cũng vẫn phải đặt việc quân lên hàng đầu, phải hoàn thành nhiệm vụ mà vua cha đã giao. Nghĩ đến nghĩa vụ với vua cha, ta quyết định ngỏ lời xem nỏ thần. Mị Châu ngay lập tức từ chối và bảo rằng nàng không biết nhưng chỉ cần nhìn vào mắt nàng ta cũng hiểu rằng nàng đang nói dối ta.

– Ta chỉ muốn xem qua thôi, sẽ không sao đâu. Dù sao sau này phụ vương mất đi, ta cùng nàng sẽ là người cai quản giang sơn xã tắc này, bảo vệ vũ khí bí mật ấy. Mà chẳng lẽ nàng không tin ta sao? – Ta ôm nàng vào lòng, nhẹ nhàng nói.

– Thiếp tin chàng nhưng phụ hoàng không cho phép bất kỳ ai vào đó. Người mà biết thì kể cả chàng hay thiếp cũng không thoát khỏi tội chém đầu – Mị Châu có vẻ động lòng, không còn từ chối như trước. Được đà ta càng lấn tới:

– Ta chỉ muốn xem một lúc cùng nàng rồi về nên sẽ chẳng ai phát hiện đâu. Mà hôm nay có yến tiệc ở

Ngự hoa viên, phụ hoàng sẽ không về sớm đâu.

Ta dỗ dành một lúc, cuối cùng nàng cũng đồng ý. Nàng đưa ta vào thư phòng của An Dương Vương rồi đẩy mạnh giá sách gần góc phòng. Ai ngờ phía sau lại có một mật đạo lớn vô cùng, bên trong có rất nhiều vũ khí và ở ngay chính giữa mật đạo chính là nỏ thần. Quả thực nó đặt biệt thật! Nhìn kĩ nó giống như một cái vuốt sắc nhọn phát ra ánh hào quang kỳ ảo. Ta thầm ghi nhớ dáng hình cái lẫy nỏ thần đó rồi nhanh chóng kéo Mị Châu quay về. Đêm hôm đó, đợi Mị Châu say giấc, ta bí mật gặp một thợ rèn có tiếng ở trong thành bảo ông ta làm một cái lẫy y hệt như ta tả. Vài ba hôm sau, ông ta bí mật cho người mang lẫy nỏ tới. Rồi nhân lúc An Dương Vương và Mị Châu đi vắng ta đã đánh tráo lẫy nỏ thần. Lúc ấy, ta đã do dự vì ta biết rằng khi cha ta có được lẫy nỏ thần thì An Dương Vương và thê tử của ta sẽ không còn đường sống sót. Vì thế, trước hôm mang lẫy nỏ thần về nước ta đã cố tình để lộ dấu vết cho Mị Châu:

– Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không thể dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng lấy gì làm dấu?

– Thiếp phận nữ nhi, nếu gặp cảnh biệt li thì đau đớn khôn cùng. Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ rút lông mà rắc ở ngã ba đường làm dấu, như thế sẽ tìm được nhau – Nàng đáp lại mà chẳng mảy may nghi ngờ làm lòng ta càng lo lắng nhưng vì vua cha thúc giục ta buộc phải lên đường.

Sau khi về nước, ta lập tức đưa nỏ thần cho vua cha. Người rất hài lòng và lập tức chuẩn bị binh lính nhanh chóng chiếm lấy Âu Lạc. Nhìn dáng vẻ đắc ý của vua cha mà ta cảm thấy lạc lõng trong tham vọng của Người. Điều mà ta lo lắng nhất là không biết An Dương Vương biết bị mất lẫy nỏ thần chưa? Nếu biết rồi thì Mị Châu có sao không? Nàng giờ ra sao?… Bao nhiêu ý nghĩ về nàng bủa vây lấy ta chứ không phải là những toan tính về cuộc chiến. Thực lòng ta không muốn ra trận trong cuộc chiến này nhưng nếu để tướng binh khác đi thay thì e rằng mạng sống của nàng sẽ nằm trong tay đao của hắn, vậy nên dù không muốn ta cũng chấp nhận xin đi để được gặp lại nàng, để cứu người con gái ngây thơ tội nghiệp ấy ra khỏi khói lửa đao binh.

Sau vài ngày thần tốc, cuối cùng ta cùng đội quân hùng mạnh cũng đã trông thấy Loa Thành từ xa. Ta cho quân dừng lại  cách Loa Thành vài dặm nhưng chờ một  canh giờ  mà Loa thành vẫn chẳng  có một sự nghênh chiến nào. Có lẽ An Dương Vương vẫn chưa nhận ra lẫy nỏ thần đã bị mất nên mới ung dung như vậy. Ta liền cho quân tiến thẳng vào thành, ta dễ dàng và nhanh chóng chiếm được thành nhờ có lẫy nỏ thần trong tay. Mặc kệ cho quân lính tiêu diệt binh lính nước Nam, ta phi một mình một ngựa tiến thẳng vào cung tìm Mị Châu nhưng không thấy. Ta thầm cầu mong quân lính đừng nhìn thấy nàng chạy trốn mà đuổi theo. Ta vội chạy ra cổng sau thì thấy dấu lông ngỗng nàng để lại hướng thẳng về phía Nam. Ta phi

 

 

ngựa thật nhanh về hướng đó, vừa phi vừa lo lắng không yên vì liệu nàng có còn được bình yên? Chẳng mấy chốc ta tới bờ biển nhưng chẳng thấy An Dương Vương đâu, chỉ còn một con ngựa và xa xa là một cái xác không đầu. Ta như bị thất thần, nhảy xuống ngựa, bước từng bước tiến gần đến cái xác ấy. Chẳng cần nhìn vào bộ y phục ta cũng biết đó là ai. “Trời ơi! Ta đã hại nàng rồi!” ta ôm lấy xác nàng mà khóc. Rồi ta mang xác nàng về an táng thì kỳ lạ thay xác hóa thành ngọc thạch.

Sau khi chiếm được Âu Lạc, nước ta càng giàu mạnh hơn nhưng ta không hề thấy vui sướng. Ta luôn sống trong ân hận và day dứt sau cái chết của Mị Châu cho dù vua cha cũng đã lấy cho ta một người làm thê thiếp. Trong lòng ta luôn có bóng dáng của Mị Châu.

Hôm ấy ta đang tắm, ta nhìn thấy nàng đứng gần cái giếng. Ta vội vàng chạy tới để ôm lấy nàng…ta rơi xuống… xung quanh rất tối, nước bắt đầu tràn vào tai, mũi và miệng ta. Ngực ta không thể thở nổi, ta bắt đầu khó thở và trước mắt ta không còn thứ gì nữa, không thể nhìn thấy gì nữa… Trước mắt ta là người thê tử mà ta hằng yêu nhớ, nàng nắm lấy tay ta. Ta tự hỏi liệu nàng có tha thứ cho ta không? Nhưng tất cả lặng thinh, ta không còn thấy gì nữa, cũng không cảm nhận được bất cứ thứ gì. Ta đã chết!

(Bài làm của Đỗ Ngọc Châu lớp 10D6, Trường THCS – THPT Nguyễn Tất Thành, Hà Nội)

Bài 8: Lập dàn ý cho các đề bài sau:

  1. Nhập vai tôi tớ của Mtao Mxây kể lại đoạn trích Chiến thắng Mtao Mxây.
  2. Nhập vai nhũ mẫu kể lại đoạn trích Uy-lit-xơ trở về.
  3. Tưởng tượng mình là Mị Châu tự kể về cuộc đời mình.

Bài 9: Với đề bài: Nhập vai Trọng Thủy viết lại một kết thúc khác cho truyện Truyện An Dương Vương, Mị Châu và Trọng Thủy, chi tiết nào của anh/chị sẽ là chi tiết tiêu biểu? Vì sao? Kể lại chi tiết đó.

ĐÁP ÁN Bài 1:

Gợi ý làm bài:

Nhạc cụ của người Ê-đê: cồng chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc… Đặc trưng riêng của văn hóa Tây Nguyên:

+ Văn hóa cồng chiêng

+ Sử thi Tây Nguyên

+ Lễ hội truyền thống.

Bài 2

Gợi ý làm bài:

Những bộ phim siêu anh hùng thời hiện đại như Người sắt, Người nhện, Người kiến, Biệt đội siêu anh hùng, Nội chiến siêu anh hùng… luôn là những bộ phim thu hút lượng khán giả lớn mỗi khi công chiếu. Nhân vật siêu anh hùng thường có khả năng đặc biệt, siêu phàm, biến hóa linh hoạt, sức chịu đựng tai họa

lớn, làm những việc có ý nghĩa lớn lao như giải cứu thế giới, giải thoát nhân loại… luôn được khán giả

đặc biệt yêu thích, say mê. Điều đó cho thấy, dù khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ: con người vẫn mơ ước về những cá nhân kiệt xuất, có khả năng đặc biệt, sẵn sàng hi sinh bản thân vì cộng đồng.

Nhân vật siêu anh hùng anh/chị yêu thích: tên, đặc điểm, trong bộ phim nào? Vì sao anh/chị yêu thích nhân vật này?

Bài 3: Học sinh tự thực hiện.

Bài 4: Học sinh tự thực hiện.

 

 

Bài 5: Học sinh tự thực hiện. Bài 6: Học sinh tự thực hiện. Bài 7:

Gợi ý làm bài:

Truyện được kể theo nhân vật Trọng Thủy, xưng “ta” ở ngôi thứ nhất

Tác dụng của ngôi kể: các sự việc được trình bày một cách chủ quan, thể hiện được những tâm tư suy

nghĩ của nhân vật.

Dàn ý:

+ Mở bài: giới thiệu nhân vật bằng cách nêu suy nghĩ của nhân vật.

+ Thân bài: lần lượt trình bày các sự việc trung thành với cốt truyện gốc đồng thời sáng tạo những chi tiết

miêu tả suy nghĩ, nội tâm của nhân vật.

+ Kết bài: Cảm nghĩ của nhân vật Trọng Thủy về cái chết của Mị Châu và sự hối hận muộn màng của

mình.

Bài 8:

Gợi ý làm bài:

Đề 1:

+ Mở bài: giới thiệu quang cảnh nhà Mtao Mxây và cảm nhận của tôi tớ trước hình ảnh của Đăm Săn

+ Thân bài: lần lượt kể lại các sự việc kèm theo cảm xúc suy nghĩ của tôi tớ Mtao Mxây trước vẻ đẹp và tài năng của Đăm Săn.

+ Kết bài: bộc lộ niềm tin tưởng vào thủ lĩnh mới của bộ tộc mình – Đăm Săn. Đề 2:

+ Mở bài: Giới thiệu suy nghĩ của nhũ mẫu về khả năng Uy-lit-xơ có trở về không và sự ngạc nhiên, bất ngờ khi nhận diện ra Uy-lit-xơ trong bộ dạng của người hành khất.

+ Thân bài: Trình bày lại các sự việc trung thành với cốt truyện, sáng tạo thêm những suy nghĩ của nhân

vật về sự đấu trí giữa Uy-lit-xơ và Pê-nê-lốp.

+ Kết bài: niềm vui và mong ước sau khi chứng kiến cuộc đoàn tụ gia đình của Uy-lit-xơ

Đề 3:

Mở bài: những cảm nhận của Mị Châu khi đang ở một thế giới khác sau khi chết (thủy cung, hoặc âm

phủ….)

Thân bài:

+ Giới thiệu tình huống Mị Châu kể về cuộc đời mình.

+ Lần lượt kể lại diễn biến câu chuyện. Kết bài:

Cảm nghĩ của Mị Châu về Trọng Thủy (có tha thứ hay không) và những mong ước.

Bài 9:

Gợi ý làm bài:

Chi tiết sống với Mị Châu, mang theo nỏ thần đánh cắp về quê cha, mang quân sáng đánh Âu Lạc, đi tìm Mị Châu, Mị Châu chết… đó có là những chi tiết tiêu biểu. Bởi những chi tiết này thể hiện rõ tâm trạng, tình cảm vô cùng phức tạp của Trọng Thủy và nỗi khổ của y.

 Link tải File

2. Tai ve_Uy-lít-xơ trở về - Chiến thắng Mtao Mxây.zip