Ngữ văn lớp 10 – Chuyện chức phán sự đền Tản Viên

Nội dung chính Chuyên đề 8.

33. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
34. Những yêu cầu sử dụng Tiếng Việt
35. Phương pháp thuyết minh
6. Tóm tắt văn bản thuyết minh
37. Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh

 

 File Dowload nằm phía cuối bài viết:

 

Mục tiêu

Kiến   thức

CHUYÊN ĐỀ 8

 

+Nhắc    lại về tác giả Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục và đặc điểm truyện truyền kì.

+   Làm rõ phẩm chất dũng cảm kiên cường, ý chí của nhân vật, đại diện cho trí thức người Việt.

+   Trình bày đặc điểm, phương pháp văn thuyết minh.

+Khẳng    định rõ những yêu cầu của việc sử dụng tiếng Việt.

Kĩ   năng

+   Tóm tắt truyện bằng lời văn hoặc sơ đồ.

+   Tìm hiểu nhân vật truyện truyền kì qua nghệ thuật miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, hành động.

+Viết    đoạn văn thuyết minh về truyện.

+   Tóm tắt được văn bản thuyết minh.

+   Phác thảo dàn ý và tạo lập văn bản thuyết minh.

+Sử    dụng tiếng Việt đúng ngữ âm, từ vựng, phong cách để đạt hiệu quả giao tiếp.

 

  1. VĂN BẢN VĂN HỌC
  2. LÍ THUYẾT TRỌNG TÂM

CHUYỆN CHỨC  PHÁN SỰ ĐỀN TẢN  VIÊN (Tản Viên từ  phán sự lục – trích

Truyền kì mạn lục¸ Nguyễn Dữ)

  1. TRUYỀN KÌ MẠN LỤC
  2. Tác giả

– Quê quán: Thanh Miện, Hải Dương.

– Xuất thân: Gia đình khoa bảng từng đi thi, làm quan sau lui về ở ẩn.

– Tác phẩm nổi tiếng: Truyền kì mạn lục.

  1. Tác phẩm

– Thể loại truyền kì, viết bằng chữ Hán.

– Ra đời vào nửa đầu thế kỉ XVI, gồm 20 truyện.

– Giàu giá trị hiện thực và nhân đạo, được khen tặng là “thiên cổ kì bút”.

  1. CHUYỆN CHỨC PHÁN SỰ ĐỀN TẢN VIÊN
  2. Ngô Tử Văn

Giới thiệu: Người “khảng khái, nóng nảy, thấy sự tà gian thì không chịu được, vùng Bắc người ta vẫn

khen là một người cương trực”.

Biểu hiện của tính khảng khái, cương trực:

+Tức    giận trước việc hung yêu tác quái của hồn ma tên Bách hộ, châm lửa đốt đền tà.

+Điềm    nhiên không sợ hãi trước những lời đe dọa của hồn ma tên Bách hộ.

+   Gan dạ trước bọn quỷ Dạ Xoa và cảnh địa ngục.

+Cứng    cỏi bảo vệ chân lí trước Diêm Vương.

Kết quả cuộc đấu tranh:

+Chiến    thắng, hồn ma tên tướng giặc đem lại cuộc sống yên lành cho nhân dân, trừng trị tên tướng giặc.

+Tử    Văn được tiến cử làm quan phán sự đền Tản Viên.

  1. Nội dung

– Ngợi ca nhân vật Ngô Tử Văn khẳng khái, cương trực.

– Phê phán, hiện thực bất công, kẻ ác lộng hành, thánh thần nhận đút lót, bao che cái xấu; quan lại quan liêu…

– Khẳng định niềm tin vào công lí, chính nghĩa thắng gian tà.

– Củng cố lòng chính nghĩa, tự hào về người trí thức Việt.

  1. Nghệ thuật

– Truyện giàu kịch tính, kết cấu chặt chẽ, lô gic, thắt mở nút hợp lí.

– Nhiều yếu tố kì ảo: chuyện thần, chuyện người, chuyện ma, thế giới thực và ảo đan cài… tạo nên sự hấp dẫn.

 

 

  1. BÀI TẬP CỦNG CỐ

Bài 1: Vì sao Ngô Tử Văn đốt đền? Chàng đã làm việc đó như thế nào? Anh/ chị suy nghĩ gì về hành

động đốt đền của Ngô Tử Văn?

Gợi ý làm bài:

Ngô     Tử Văn đốt đền vì: tức giận, không chịu được cảnh yêu tà tác oai tác quái, làm hại dân lành.

Hành     động của Tử Văn: tắm gội sạch sẽ, khấn trời rồi châm lửa đốt đền.

→ Hành động của Tử Văn cẩn trọng, công khai, đàng hoàng, quyết liệt. Chàng tin hành động của mình là vì chính nghĩa và mong trời chứng giám.

→ Hành động của Tử Văn cho thấy sự khảng khái, cương trực, dũng cảm của một kẻ sĩ vì dân trừ tà, không ngại hiểm nguy.

Bài 2: Hồn tên tướng giặc đã làm những việc gì? Tại sao hắn có thể tác oai tác quái cho dân và kiện Tử

Văn dưới Minh ti? Hình ảnh tòa án ở cõi âm theo anh/ chị có ý nghĩa gì?

Gợi ý làm bài:

Hồn ma tên tướng giặc đã làm nhiều việc xấu:

+Cướp    đền của Thổ công, giả mạo Thổ thần.

+   Làm hại dân chúng.

+Đe    dọa Tử Văn.

+Kiện    và vu oan cho Tử Văn dưới Minh ti.

Hắn có thể làm được những việc đó vì:

+   Các đền miếu xung quanh ăn của đút nên bao che.

+   Diêm Vương quan liêu, không sâu sát tình hình nên không biết.

Hình ảnh tòa án ở cõi âm gợi nhiều suy nghĩ:

+Thể    hiện niềm tin của người xưa:bên  cạnh cõi trần còn có cõi âm, nơi con người sẽ phải đến để nhận sự phán xét và thưởng phạt về những việc làm của mình khi còn sống.

+   Công lí nếu không thực hiện ở cõi trần sẽ được thực thi ở cõi âm. Thể hiện niềm tin vào công lý

của người xưa.

+   Khuyên con người nên sống ngay thẳng, lương thiện, tránh làm điều xấu, điều ác.

Bài 3: Anh/ chị hiểu như thế nào về chức quan phán sự? Việc Ngô Tử Văn nhận chức quan này ở đền Tản

Viên có ý nghĩa gì?

Gợi ý làm bài:

Chức quan phán sự: là chức quan coi việc xử án ngày xưa. Người giữ chức vụ này đại diện cho nhà

nước để thực thi công lí. Ngô Tử Văn nhận chức này vì chàng đã dũng cảm bảo vệ công lí và chính nghĩa.

Ý nghĩa của việc Tử Văn nhận chức quan phán sự:

+   Là phần thưởng xứng đáng cho người ngay thẳng, dám đấu tranh bảo vệ công lí.

+   Khích lệ mọi người dũng cảm đấu tranh chống cái ác.

+   Mong muốn của nhân dân: có một vị quan thanh liêm, chính trực, đứng về lẽ phải và nhân dân,

bảo vệ nhân dân.

Bài 4: Nêu ý nghĩa phê phán và chủ đề của Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.

Gợi ý làm bài:

Ý nghĩa phê phán và chủ đề truyện: dựa vào phần Kiến thức trọng tâm.

  1. TIẾNG VIỆT
  2. LÍ THUYẾT TRỌNG TÂM

NHỮNG YÊU CẦU SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT

  1. Sử dụng đúng chuẩn mực tiếng Việt
  2. Ngữ âm, chữ viết

– Phát âm theo chuẩn tiếng Việt.

– Viết đúng theo quy tắc hiện hành về chính tả.

  1. Từ ngữ

– Dùng từ ngữ đúng với hình thức, cấu tạo, ý nghĩa, đặc điểm ngữ pháp trong tiếng Việt.

– Dùng từ chính xác, đúng mục đích.

  1. Ngữ pháp

– Cấu tạo câu theo đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt.

– Diễn đạt đúng các quan hệ ý nghĩa và sử dụng dấu câu thích hợp.

– Cần liên kết chặt chẽ các câu trong đoạn văn, đảm bảo sự mạch lạc, thống nhất.

  1. Phong cách ngôn ngữ: Nói và viết phù hợp với các đặc trưng và chuẩn mực trong từng phong cách

chức năng ngôn ngữ.

  1. Sử dụng hay, đạt hiệu quả giao tiếp cao

– Khi nói hoặc viết, chẳng những cần sử dụng tiếng Việt đúng theo các chuẩn mực, mà cần sử dụng một

cách sáng tạo.

– Cần có sự chuyển đổi linh hoạt theo các phương thức và quy tắc chung, theo các phép tu từ để cho lời

nói, câu văn có tính nghệ thuật và đạt hiệu quả giao tiếp cao.

  1. BÀI TẬP CỦNG CỐ

Bài 1: Anh/chị hãy trình bày ngắn gọn những yêu cầu cơ bản về sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hằng

ngày?

Gợi ý làm bài:

Những yêu cầu cơ bản về sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày:

+Về    ngữ âm và chữ viết: cần phát âm theo âm thanh chuẩn của tiếng Việt, viết đúng theo các quy

tắc hiện hành về chính tả và về chữ viết nói chung.

+Về    từ ngữ: cần dùng từ đúng hình thức, cấu tạo, ý nghĩa, đặc điểm ngữ pháp của chúng trong tiếng

Việt.

+Về    ngữ pháp: cần cấu tạo câu theo đúng quy tắc ngữ pháp tiếng Việt, diễn đạt đúng các quan hệ ý nghĩa và sử dụng dấu câu thích hợp; cần liên kết câu văn trong đoạn văn, đoạn văn trong văn bản chặt chẽ, mạch lạc, thống nhất.

+Về    phong cách ngôn ngữ: cần nói và viết phù hợp với các đặc trưng, chuẩn mực trong từng phong cách chức năng ngôn ngữ.

Bài 2: Anh/chị hãy trình bày một số cách thức sử dụng tiếng Việt có khả năng đạt hiệu quả cao trong giao tiếp hằng ngày. Lấy ví dụ minh họa cho một cách thức bất kì và phân tích ngắn gọn hiệu quả của cách thức đó.

Gợi ý làm bài:

Để sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong giao tiếp hàng ngày, người nói có thể lựa chọn những

cách thức như sau:

+Sử    dụng tiếng Việt một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh, không rập khuôn cứng nhắc.

+Chuyển    đổi linh hoạt theo các phương thức và quy tắc chung của ngôn ngữ tiếng Việt cũng như

hoàn cảnh giao tiếp.

+Vận    dụng khéo léo các phép tu từ, biện pháp nghệ thuật.

Phân tích ví dụ mẫu: Thay vì nói “Bác ơi, sao trông bác trẻ hơn so với tuổi vậy?”, có thể nói “Bác ơi, dường như thời gian đang có bước lùi trên gương mặt của bác thì phải?”

→ Sử dụng cụm từ “thời gian đang có bước lùi” như một phép ẩn dụ để diễn tả khéo léo sự trẻ trung của gương mặt, đồng thời có khả năng gây thú vị cho người nghe.

Bài 3: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

Nhưng đời nào tình thương yêu và lòng kính mến mẹ tôi lại bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến… Mặc dầu non một năm ròng mẹ tôi không gửi cho tôi lấy một lá thư, nhắn người thăm tôi lấy một lời và gửi cho tôi lấy một đồng quà.

Tôi cũng cười đáp lại cô tôi:

– Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về.

(Những ngày thơ ấu, Nguyên Hồng)

  1. Trong đoạn trích trên, bé Hồng đã nghĩ đến và nói về một đối tượng. Đối tượng ấy là ai?
  2. Anh/chị hãy lí giải vì sao cùng một đối tượng, nhưng trong suy nghĩ và lời nói của bé Hồng, đối tượng ấy lại được tác giả thể hiện bằng hai đại từ khác nhau?
  3. Việc sử dụng từ ngữ trong lời nói như vậy thuộc về tầng lớp nào trong xã hội Việt Nam trước Cách

mạng tháng Tám 1945?

Gợi ý làm bài:

  1. Trong đoạn trích trên, chú bé Hồng đã nghĩ và nói đến một đối tượng duy nhất: đó là người mẹ của em. b. Cùng đề cập đến một đối tượng duy nhất – người mẹ của chú bé Hồng, song ở sự suy nghĩ và lời nói của nhân vật, chúng ta bắt gặp hai đại từ khác nhau là “mẹ” (trong suy nghĩ) và “mợ” (trong lời nói).

Lí giải nguyên nhân:

 

+   Tác giả dùng từ “mẹ” khi chú bé Hồng suy nghĩ vì những câu văn trên đóng vai trò câu văn dẫn truyện, với đối tượng hướng đến là người đọc toàn dân. Tác giả sử dụng từ ngữ toàn dân “mẹ” trong trường hợp này là hoàn toàn hợp lý.

+   Tuy nhiên, khi chú bé Hồng phát ngôn, tác giả để chú bé gọi “mẹ” là “mợ”. Xem xét đến hoàn cảnh của nhân vật, đây là cách xưng hô đặc biệt của các gia đình sống trong giới thượng lưu thời kì Pháp thuộc. Hồng sinh trưởng trong một gia đình như vậy nên chú bé bị ảnh hưởng bởi cách xưng hô kể trên. Hơn nữa, đối tượng mà lời nói của Hồng hướng đến ở đây là bà cô – một người cũng thuộc tầng lớp thượng lưu. Vì vậy, việc tác giả để Hồng dùng từ “mợ” khi nói chuyện với bà cô cho thấy sự đặc biệt trong cách xưng hô của một tầng lớp trong xã hội cũ.

  1. Trong xã hội Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, tầng lớp thượng lưu thị thành Việt Nam thường có cách xưng hô đặc biệt kể trên. Họ gọi “cha” là “cậu”, “mẹ” là “mợ”. Chúng được gọi là các biệt ngữ xã hội, phổ biến trong một tầng lớp nào đó trong xã hội?

Bài 4: Việc kết hợp âm điệu ngữ âm tiếng Việt (thanh bằng/ trắc) trong các câu thơ sau có tác dụng như thế nào trong việc biểu đạt nội dung?

a.

b.

Gợi ý làm bài:

Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi.

Tài cao phận thấp chí khí uất

Giang hô mê chơi quên quê hương.

(Nhị hồ, Xuân Diệu)

(Thăm mả cũ bên đường, Tản Đà)

 

Phân tích tác dụng của việc kết hợp ngữ âm:

a.

Hai câu     thơ trong được nhà thơ tạo nên hoàn toàn bằng các thành bằng (các âm tiết có dấu là dấu

huyền hoặc không có dấu).

Tác     dụng: làm gia tăng cảm giác về sự bồng bềnh, nhẹ trôi, hững hờ của sương và trăng (câu 1); đồng thời khiến độc giả cảm nhận rõ ràng hơn tâm trạng chơi vơi, chênh vênh của lòng người trong giây phút tương tư cùng thiên nhiên (câu 2).

b.

Câu     thơ 1 kết hợp giữa hai âm tiết có thanh bằng (tài/ cao) và năm âm tiết có thanh trắc (phận/ thấp/ chí khí/ uất). Chúng ta bắt gặp sự đối lập tương phản mạnh mẽ giữa tài năng và thân phận, dẫn tới bi kịch “bất đắc chí”. Âm điệu câu thơ càng về cuối càng trở nên trúc trắc, dồn nén như sự thất vọng, bế tắc của con người mang hùng tâm tráng chí.

 

Câu     thơ 2 có bảy âm tiết, đều là những thanh bằng. Trong đó số âm tiết không dấu chiếm phần lớn (sáu âm tiết). Việc kết hợp ngữ âm như vậy tạo cảm giác bao la, mênh mông của thế giới “giang hồ”, đồng thời cho thấy tinh thần tự do, phóng khoáng, có chút kiêu bạc bất cần của kẻ tự nhận mình là “giang hồ”.

Bài 5: Các câu văn sau đây mắc lỗi dùng từ như thế nào? Hãy chữa lại cho đúng.

  1. Diện mạo của một nền văn học Việt Nam giàu tính truyền thống và hiện đại là một chân dung đang

hình thành.

  1. Anh ta là một yếu nhân: hễ thời tiết thay đổi là anh ta lại hắt hơi, sổ mũi, ho húng hắng.
  2. Đứng trước nòng súng quân thù, người chiến sĩ ấy vẫn nghênh ngang cho đến tận giờ phút chót lọt.
  3. Ông lão được các cơ quan nhà nước mời đến trụ sở để truy tặng huân chương cho những cống hiến to

lớn của ông lão trong cuộc kháng chiến.

Gợi ý làm bài:

  1. Câu này thừa từ “chân dung” (vì trước đó đã có từ “diện mạo” tương đồng về nét nghĩa).

Chữa lại: Diện mạo của một nền văn học Việt Nam giàu tính truyền thống và hiện đại đang hình thành. b. Câu này đề cập đến sự yếu ớt, yếu đuối của “anh ta”, nhưng lại dùng sai ý nghĩa của từ “yếu nhân” (nghĩa là “người quan trọng”).

Chữa lại: Anh ta là một người yếu ớt: hễ thời tiết thay đổi là anh ta lại hắt hơi, số mũi, ho húng hắng.

  1. Câu này có hai lỗi dùng từ sai:

Phải     là “hiên ngang” (chỉ sự bất khuất) chứ không phải “nghênh ngang” (chỉ sự ngông nghênh, phách lối, hách dịch).

Phải     là “phút chót” (phút cuối cùng) chứ không phải “phút chót lọt” (“chót lọt” vừa sai về chính tả

– “trót lọt”, vừa không có ý nghĩa).

Chữa lại: Đứng trước nòng súng quân thù, người chiến sĩ ấy vẫn hiên ngang cho đến tận giờ phút chót.

  1. Câu này có hai lỗi:

Lỗi     dùng từ sai: phải là “trao tặng” chứ không phải “truy tặng”. Từ “truy tặng” được sử dụng khi người được nhận giải thưởng đã qua đời. Tuy nhiên trong câu văn, chúng ta biết “ông lão” vẫn còn sống và được cơ quan mời đến dự lễ trao huân chương.

Lỗi     lặp từ: lặp “ông lão” ở phần sau (không cần thiết vì người nghe đều hiểu ông lão được trao

thưởng vì những cống hiến của chính ông chứ không phải của ai khác).

Chữa lại: Ông lão được các cơ quan nhà nước mời đến trụ sở để trao tặng huân chương cho những cống hiến to lớn trong cuộc kháng chiến.

Bài 6: Trong Truyện Kiều, khi miêu tả về nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du đã viết: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Khi miêu tả về nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du lại viết: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

 

  1. Anh/chị hãy chỉ ra sự khác biệt trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du khi miêu tả về hai nhân vật

Thúy Vân và Thúy Kiều.

  1. Anh/chị hãy cho biết sự khác biệt trên đây có tác dụng gì trong việc biểu đạt ý đồ của tác giả?

Gợi ý làm bài:

  1. Sự khác biệt của Nguyễn Du trong cách dùng từ khi miêu tả về chị em Thúy Kiều:

Miêu     tả Thúy Vân: tác giả dùng động từ “thua”, “nhường” phía sau những danh từ chỉ vẻ đẹp của

thiên nhiên (“mây”, “tuyết”).

Miêu     tả Thúy Kiều: tác giả dùng động từ “ghen”, “hờn” phía sau những danh từ chỉ vẻ đẹp của

thiên nhiên (“hoa”, “liễu”).

Xét     về mức độ: cả bốn động từ đều khẳng định vẻ đẹp của hai nhân vật đều có phần hơn so với thiên nhiên. Nhưng “thua”, “nhường” không thể hiện sự ghen tuông, đố kị; còn “hờn”, “ghen” cho thấy thái độ ghen tuông, đố kị đã xuất hiện, thậm chí ở mức độ gay gắt.

  1. Tác dụng: các động từ nêu trên đều có tính chất dự báo phong phú về số phận của hai nhân vật.

Thúy Vân mang     vẻ đẹp hài hòa, được thiên nhiên chịu thua, nhường nhịn. Cuộc đời nàng được dự

báo sẽ êm đềm, bình yên.

Thúy     Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo, vượt trội so với thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải ghen tuông,

đố kị, giận hờn. Cuộc đời nàng được dự báo sẽ khó khăn, gian khổ và gặp nhiều sóng gió tai ương.

Bài 7: Các câu văn sau đây mắc lỗi ngữ pháp như thế nào? Hãy chữa lại cho đúng.

  1. Qua tác phẩm Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy đã nêu cao bài học về mốii quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng.
  2. Bằng hệ thống luận điểm chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, trên hết là tình yêu nước nồng

nàn và lòng tự hào trước chiến công vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

  1. Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, thường cầm sách than thở, có ý đồ lỗi bậy

cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ.

  1. Trải qua bao cuộc bể dâu của thời đại loạn lạc, người nghệ sĩ Nguyễn Du, một trái tim lớn với tình yêu

thương bao la dành cho thập loại chúng sinh trong bể khổ.

Gợi ý làm bài:

  1. Câu này thiếu chủ ngữ.

Chữa lại: Qua tác phẩm Truyện An Dương Vương và Mị Châu, Trọng Thủy, tác giả dân gian đã nêu cao bài học về mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng.

  1. Câu này thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ
Xem tiếp:  Tổng hợp đề thi cuối học kì 1 - Ngữ văn lớp 10 - kèm đáp án chi tiết

Chữa lại: Bằng hệ thống luận điểm chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng phong phú, trên hết là tình yêu nước nồng nàn và lòng tự hào trước chiến công vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã để lại trong kho tàng văn chương Việt Nam một áng văn chính luận bất hủ: “Bình Ngô đại cáo”.

  1. Câu này thiếu chủ ngữ.

Chữa lại: Mỗi khi nhặt nhạnh ở giấy tàn, vách nát được một vài câu, ta thường cầm sách than thở, có ý

đổ lỗi bậy cho hiền nhân quân tử lúc bấy giờ.

  1. Câu này thiếu vị ngữ.

Chữa lại: Trải qua bao cuộc bể dâu của thời đại loạn lạc, người nghệ sĩ Nguyễn Du, một trái tim lớn với tình yêu thương bao la dành cho thập loại chúng sinh trong bể khổ, đã cất cao tiếng nói xót thương những số phận bất hạnh qua các sáng tác văn học, bằng cả chữ Hán lẫn chữ Nôm.

  1. TẬP LÀM VĂN
  2. LÍ THUYẾT TRỌNG TÂM

PHƯƠNG PHÁP THUYẾT MINH

  1. Yêu cầu

– Không rời xa mục đích thuyết minh.

– Làm nổi bật bản chất và đặc trưng của các sự vật.

– Làm cho người đọc (người nghe) tiếp nhận dễ dàng, hứng thú.

  1. Phương pháp

– Phương pháp nêu định nghĩa.

– Phương pháp so sánh.

– Phương pháp phân loại.

– Phương pháp phân tích.

– Phương pháp chú thích.

– Phương pháp giảng giải.

– Phương pháp nêu ví dụ.

– Phương pháp liệt kê.

– Phương pháp dùng số liệu.

VIẾT ĐOẠN VĂN BẢN THUYẾT MINH

  1. Cấu trúc

– Mở đoạn.

– Thân đoạn.

– Kết đoạn.

  1. Trình tự: Thời gian, Không gian, Phản bác – chứng minh.
  2. Yêu cầu

– Nắm vững kiến thức và kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh.

– Có đủ tri thức cần thiết và chuẩn xác.

– Nắm vững kiến thức và kĩ năng viết đoạn văn thuyết minh.

– Vận dụng đúng đắn, sáng tạo phương pháp thuyết minh và diễn đạt.

TÓM TẮT VĂN BẢN THUYẾT MINH

  1. Mục đích

 

 

– Hiểu, ghi nhớ nội dung cơ bản của bài văn.

– Giới thiệu với người khác về đối tượng thuyết minh và văn bản đó.

  1. Yêu cầu

– Ngắn gọn, rành mạch.

– Sát với nội dung văn bản gốc.

  1. Cách làm

Viết

Tóm tắt các ý để

hình thành văn bản

Tìm bố cục văn bản

Đọc văn bản gốc để nắm vững đối tượng thuyết

minh

Xác định mục đích, yêu cầu tóm tắt

LUYỆN TẬP VIẾT ĐOẠN VĂN THUYẾT  MINH (Học  sinh tự hệ thống lại kiến thức đã học)

  1. BÀI TẬP CỦNG CỐ

Bài 1: Các văn bản thuyết minh sau sử dụng phương pháp thuyết minh nào?

  1. Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, một tuyên ngôn, một sự kiện để mọi người cùng biết. Trong thể cáo, có loại văn cáo thường ngày như chiếu sách của vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa của một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối,

 

câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai vế đối nhau. Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ

đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.

(Ngữ văn 10, tập hai) b. Ở nước ta, mỗi năm có 40.000 người tử vong vì các bệnh có liên quan đến thuốc lá và 33 triệu người không hút thuốc bị ảnh hưởng do hít khói thuốc thụ động. Nhằm tăng cường bảo vệ sức khỏe cho những người không hút thuốc lá, hạn chế ảnh hưởng của khói thuốc lá nơi công cộng, Chính phủ đã ban hành Nghị định 45/2005 NĐ-CP, ngày 06 tháng 4 năm 2005 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực Y tế, theo đó sẽ phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

– Hút thuốc lá, thuốc lào ở nơi công cộng như: trong rạp hát, rạp chiếu phim, phòng họp, phòng làm việc, bệnh viện, thư viện, phòng đợi của nhà ga, bến xe, sân bay, bến cảng, trên các phương tiện giao thông công cộng hoặc ở những nơi công cộng khác có quy định cấm.

– Bán thuốc lá, thuốc lào cho trẻ em dưới 16 tuổi. Thiết thực thực hiện nếp sống văn minh nơi công cộng, góp phần nâng cao chất lượng sống, mỗi chúng ta hãy tự giác thực hiện không hút thuốc trong nhà, nơi làm việc và những nơi công cộng bị cấm hút thuốc lá. Không hút thuốc lá nơi có trẻ em và người già, nhắc nhở người khác khi hút thuốc nơi công cộng.

Lợi ích đối với sức khoẻ khi bỏ thuốc lá: Cơ thể sẽ không còn tích luỹ chất độc, loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây các bệnh đã nêu trên. Nếu bỏ thuốc trước tuổi 50 sẽ giảm 50% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch sau khi bỏ thuốc được 1 năm, giảm 50% nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi.

(https://lhu.edu.vn/494/22597/Tac-hai-cua-thuoc-la-doi-voi-suc-khoe-con-nguoi.html) c. Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây nay thuộc Hà Nội). Thân sinh là Nguyễn Ứng Long (sau đổi thành Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, học giỏi, đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) thời Trần. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ (ngang Tể tướng) Trần Nguyên Đán.

Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình mà bên nội cũng như bên ngoại đều có hai truyền thống lớn:

yêu nước, văn hóa, văn học.

Gợi ý làm bài:

  1. Các phương pháp thuyết minh của văn bản:

Phương      pháp định nghĩa: Cáo là thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, một tuyên ngôn, một sự kiện để mọi người cùng biết.

Phương     pháp phân loại:  Trong thể  cáo, có loại văn  cáo thường  ngày như chiếu  sách của  vua truyền xuống về một vấn đề nào đó, có loại văn đại cáo mang ý nghĩa của một sự kiện trọng đại, có tính chất quốc gia. Cáo có thể được viết bằng văn xuôi hay văn vần nhưng phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu, không có vần hoặc có vần, thường có đối, câu dài ngắn không gò bó, mỗi cặp hai về đối nhau.

 

Phương      pháp so sánh: Cũng như hịch, cáo là thể văn hùng biện, do đó lời lẽ đanh thép, lí luận phải sắc bén, kết cấu phải chặt chẽ, mạch lạc.

  1. Các phương pháp thuyết minh của văn bản:

Phương     pháp dùng số liệu:

+Ở    nước ta, mỗi năm có 40.000 người tử vong vì các bệnh có liên quan đến thuốc lá và 33 triệu người không hút thuốc bị ảnh hưởng do hít khói thuốc thụ động

+Nếu    bỏ thuốc trước tuổi 50 sẽ giảm 50% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch sau khi bỏ thuốc được 1 năm, giảm 50% nguy cơ mắc bệnh ung thư phổi.

Phương     pháp nêu ví dụ: Chính phủ đã ban hành Nghị định 45/2005 NĐ-CP, ngày 06 tháng 4 năm

2005 quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực Y tế, theo đó sẽ phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ

50.000 đồng đến 100.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây…

Phương     pháp liệt kê: Hút thuốc lá, thuốc lào ở nơi công cộng như: trong rạp hát, rạp chiếu phim, phòng họp, phòng làm việc, bệnh viện, thư viện, phòng đợi của nhà ga, bến xe, sân bay, bến cảng, trên các phương tiện giao thông công cộng hoặc ở những nơi công cộng khác có quy định cấm.

  1. Phương pháp thuyết minh của văn bản: Phương pháp chú thích. Thể hiện ở việc tác giả chú thích về các

địa danh, khái niệm trong dấu ngoặc đơn.

Bài 2: Thêm những thông tin bổ sung vào những chỗ trống sau:

  1. Nguyễn Trãi…(1)… là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị.

Ông có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán có giá trị tư tưởng nghệ thuật lớn…(2)… Sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập…(3)… viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn (sáu chữ). Ngoài sáng tác văn học, Nguyễn Trãi còn để lại cuốn Dư địa chí…(4)…

Sau thảm họa tru di tam tộc…(5)…, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị thiêu hủy nhiều. Năm

1467, vua Lê Thánh Tông đã ra lệnh sưu tập lại trước tác của ông và phải đến thể kỉ XIX, tác phẩm của Nguyễn Trãi mới được sưu tầm tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, di sản văn học Nguyễn Trãi còn đến ngày nay chắc chắn chưa phải là toàn bộ sự nghiệp văn học vĩ đại của ông.

  1. Nhắc đến số 7, chúng ta có thể kể ngay đến những sự trùng hợp ấn tượng mà cả thế giới đều biết như: âm nhạc có 7 nốt, cầu vồng có 7 sắc, 1 tuần có 7 ngày, thế giới có 7 châu lục, cuốn sách nổi tiếng nhất của Stephan Covey có tựa đề “7 Thói quen của Người thành đạt, từ Thành công trong tiếng Anh SUCCESS có 7 chữ cái và Văn minh nhân loại có 7 kỳ quan”.

Đó là những điều ai cũng biết nhưng có rất nhiều sự thật thú vị về số 7 mà không phải ai cũng biết:

+   Loài người có 7 giai đoạn tiến hoá và con người có 7 cái lỗ trên mặt…(1)… cùng với 7 trạng thái tinh thần khác nhau (ái, ố, hỉ, nộ, lạc, ai, dục – mừng, giận, thương, ghét, buồn, vui, muốn).

+Đức     Chúa Trời đã mất 7 ngày để tạo ra vũ trụ. Eva cũng được tạo ra từ xương sườn thứ 7 của Adam trong khi đó Adam được “tạo ra” vào ngày …(2)…(ngày đầu tiên của Tishri – tháng 7 theo lịch Do Thái).

 

+Bảy    thứ quý báu nhất với con người (thất bảo):…(3)…

+   Có 7 vị chính: …(4)…

+   Có 7 loại quân trên bàn cờ:…(5)….

+   Hàng năm Ngưu Lang, Chức Nữ gặp nhau ngày…(6)….

+   Loài người  sáng tạo  ra 7 loại  hình nghệ thuật cơ bản  trong suốt thời kỳ lịch sử  phát triển của

mình:…(7)… Chính bởi thế mà điện ảnh còn được gọi là môn nghệ thuật thứ bảy.

+Bảy    thiên thể mà mắt thường có thể nhìn thấy trong Hệ Mặt Trời là:….(8)….

+Bảy     thiên thể này tương ứng với bảy ngày trong tuần là: Sunday – Chủ nhật, Monday – Thứ hai, (tiếng Pháp) Mardi – Thứ  ba, (tiếng  Pháp) Mercredi – Thứ tư, (tiếng  Pháp) Jeudi – Thứ năm,  (Pháp) Vendredi – Thứ sáu, Saturday – Thứ bảy.

+“Cơn    sốt số 7” trên thế giới vào thứ 7 ngày mùng 7 tháng 7 năm 2007. Hôm đó: 7 kỳ quan của thế giới mới được công bố tại Lisbon (Bồ Đào Nha), chương trình hòa nhạc “Live Earth” diễn ra tại 7 châu lục, hàng chục ngàn cặp tình nhân tổ chức hôn lễ với những tiêu chuẩn “hoàn hảo” như 7 phù dâu, 7 phù rể, bánh 7 tầng, hoa 7 loại, tiệc 7 món,…

Gợi ý làm bài:

a.

(1) (1380 – 1442)

(2) Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục…

(3) (254 bài)

(4) – Một bộ sách địa lí cổ nhất của Việt Nam

(5) (1442)/ (vụ án Lệ Chi viên). b.

(1) (2 mắt, 2 tai, 2 lỗ mũi và một cái miệng)

(2) 7/10

(3) vàng bạc, ngọc, hổ phách, mã não, xà cừ, san hô, lưu ly

(4) chua, cay, mặn, ngọt, đắng, chát, nồng

(5) tướng, sĩ, tượng, xe, pháo, mã, tốt.

(6) 7 tháng 7 âm lịch.

(7) Điêu khắc, Hội họa, Âm nhạc, Múa, Văn học, Sân khấu, Điện ảnh.

Bài 3: Sắp xếp các ý sau thành một dàn ý hoàn chỉnh về văn bản thuyết minh ngày Tết cổ truyền của dân

tộc và cho biết mỗi luận điểm nên sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?

Do cách tính     lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.

Theo     như văn hóa phương Đông thì thời khắc giao thừa rất quan trọng, bắt đầu cho sự khởi đầu, khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng.

 

Tết     Nguyên đán – hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết Cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết. “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên đán”.

Tết     Nguyên đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”, là để phân biệt với

“Tết Tây”  (Tết Dương lịch).

Tết     Nguyên đán được bắt đầu từ những ngày giáp Tết, bắt đầu từ 23 tháng Chạp trở đi.

Ngày mùng 1     Tết: làm cơm cúng, xông đất, mừng tuổi, đi thăm người thân, chúc tụng, diễn ra các trò chơi dân gian.

Khai     hạ: hóa vàng.

Giao     thừa: cúng xôi gà, mâm cơm, đi chùa cầu may.

Trước     giao thừa: làm bánh chưng, dọn dẹp nhà cửa, thăm viếng sửa sang mộ người thân để mời về ăn Tết.

Nét     độc đáo của Tết cổ truyền đó là chợ Tết.

Mâm     cơm Tất niên sum họp thường diễn ra vào tối 29, 30.

Ngày mùng 3 theo     văn hóa là ngày “Tết thầy”.

Ngày mùng 2 theo     văn hóa là ngày “Tết mẹ”. |

Những     món ăn và vật dụng đặc trưng của ngày Tết cổ truyền dân tộc: bánh chưng, bánh tét, mứt

Tết, dưa hành, câu đối đỏ, cây nêu, lì xì…

Tết     cổ truyền gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.

Tết     cổ truyền là dịp để mỗi con người Việt khắc ghi đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.

Theo     người Trung Quốc thì nguồn gốc Tết Nguyên đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN

và sau đó có nhiều sự điều chỉnh.

Gợi ý làm bài:

  1. Mở bài: Giới thiệu ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
  2. Thân bài:

Nguồn gốc ngày Tết cổ truyền: (Phương pháp giảng giải, chú thích, phân loại, so sánh)

+Tết    Nguyên đán – hay còn gọi là Tết Cả, Tết Ta, Tết Âm lịch, Tết cổ truyền, Tết năm mới hay chỉ đơn giản: Tết. “Tết” chính là “tiết”. Hai chữ “Nguyên đán” có gốc chữ Hán; “nguyên” có nghĩa là sự khởi đầu hay sơ khai và “đán” là buổi sáng sớm. Cho nên đọc đúng phiên âm phải là “Tiết Nguyên đán”.

+Tết    Nguyên đán được người Việt Nam gọi với cái tên rất thân thương “Tết Ta”, là để phân biệt với

“Tết Tây” (Tết Dương lịch).

+   Theo người Trung Quốc thì nguồn gốc Tết Nguyên đán có từ năm Tam Hoàng Ngũ Đế 2879 TCN

và sau đó có nhiều sự điều chỉnh.

 

+   Do cách tính lịch âm của người Việt Nam có khác với Trung Quốc cho nên Tết Nguyên đán của người Việt Nam không hoàn toàn trùng với Tết của người Trung Quốc và các nước chịu ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Quốc khác.

Quá trình diễn ra Tết cổ truyền (Phương pháp phân loại, nêu ví dụ, liệt kê)

+Tết    Nguyên đán được bắt đầu từ những ngày giáp Tết, bắt đầu từ 23 tháng chạp trở đi.

+Trước    giao thừa: làm bánh chưng, dọn dẹp nhà cửa, thăm viếng sửa sang mộ người thân để mời về ăn Tết.

+   Theo như văn hóa phương Đông thì thời khắc giao thừa rất quan trọng, bắt đầu cho sự khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng.

+   Mâm cơm Tất niên sum họp thường diễn ra vào tối 29, 30.

+   Giao thừa: cúng xôi gà, mâm cơm, đi chùa cầu may.

+   Ngày mùng 1 Tết: làm cơm cúng, xông đất, mừng tuổi, đi thăm người thân, chúc tụng, diễn ra các trò chơi dân gian.

+   Ngày mùng 2 theo văn hóa là ngày “Tết mẹ”.

+   Ngày mùng 3 theo văn hóa là ngày “Tết thầy”.

+   Khai hạ: hóa vàng.

Nét đặc trưng ngày Tết (phương pháp liệt kê, nêu ví dụ)

+   Nét độc đáo của Tết cổ truyền đó là chợ Tết.

+Những    món ăn và vật dụng đặc trưng của ngày Tết cổ truyền dân tộc: bánh chưng, bánh tét, mứt

Tết, dưa hành, câu đối đỏ, cây nêu, lì xì….

+   Ý nghĩa (Phương pháp phân tích)

+Tết    cổ truyền gắn kết các thành viên trong gia đình với nhau.

+Tết    cổ truyền là dịp đễ mỗi con người Việt khắc ghi đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.

  1. Kết bài

Suy nghĩ về ngày Tết cổ truyền dân tộc.

Bài 4: Xác định  các phương  pháp thuyết  minh của văn bản  sau và nhận  xét về sự phối hợp của  các

phương pháp thuyết minh ấy.

7 CÔNG DỤNG TUYỆT VỜI CỦA VIỆC HÁT RU CON NGỦ

Hát ru con để phát huy năng khiếu và khả năng ngôn ngữ của trẻ từ sớm. Những nghiên cứu khoa học đã chứng minh rằng việc mẹ tự hát ru con ngủ mang lại nhiều lợi ích bất ngờ. Một trong số đó phải kể tới tác dụng phát huy năng khiếu và ngôn ngữ của trẻ từ khi còn nhỏ.

Giúp bé ngủ ngon và sâu giấc hơn

Nếu bạn đã từng đọc thông tin về tác dụng của âm nhạc dẫn dắt chúng ta dễ dàng chìm vào trong giấc ngủ thì sẽ hiểu tại sao với trẻ sơ sinh, hát ru lại quan trọng như vậy. Trẻ nhỏ thường cần ngủ nhiều hơn để giúp kích thích trí tuệ cũng như thể chất phát triển toàn diện trong những năm tháng đầu đời. Nhờ

 

 

lời hát ru của mẹ với âm điệu nhẹ nhàng, du dương và chất giọng vốn quen thuộc của mẹ sẽ khiến bé dễ

dàng đi vào giấc ngủ hơn.

Tuy nhiên, ngủ nhiều chưa hẳn đã tốt, chất lượng giấc ngủ mới đóng vai trò quan trọng. Hát ru không chỉ đưa bé dễ dàng đi vào giấc ngủ mà còn khiến bé ngủ sâu giấc hơn. Nhờ vậy khi tỉnh dậy, bé sẽ cảm giác sảng khoái, vui vẻ, không còn quấy khóc, gắt gỏng vì ngủ không đủ giấc nữa.

Phát huy năng khiếu của trẻ từ sớm

Một só nghiên cứu cho rằng khi mẹ để trẻ tiếp xúc với âm nhạc từ khi còn sớm, bé sẽ có xu hướng cảm nhận âm nhạc tốt hơn so với những đứa trẻ khác. Hát ru là thể loại nhạc dân gian được lưu truyền lâu đời góp phần quan trọng hình thành suy nghĩ, phát triển năng khiếu tiềm ẩn của bé khi còn nhỏ, đặc biệt là khả năng cảm thụ âm nhạc. Ngoài ra, những câu chuyện trong bài hát ru của mẹ thường khá mộc mạc giản dị đem lại cho bé bài học đầu đời quý giá. Mặc dù trong thời gian này, bé không thể hiểu được hết ý nghĩa trong từng lời hát ru của mẹ, nhưng chúng sẽ trở thành tiền đề quan trọng cho việc hình thành nhân cách cũng như suy nghĩ của bé khi trưởng thành.

Gắn kết tình mẫu tử

Nếu ngay từ khi còn trong bụng mẹ, bé đã nhận biết được giọng nói của mẹ thì giờ đây, lời hát ru của mẹ lại càng trở nên thân quen và gắn bó hơn. Âm điệu ngọt ngào trong từng lời hát ru của mẹ gửi gắm tình mẫu tử thiêng liêng làm bé dễ dàng say giấc nồng. Đây chính là cơ hội để bé cảm nhận được tình yêu của mẹ và tăng sự liên kết, gắn bó giữa hai mẹ con.

Giúp bé cảm thấy an toàn hơn

Một nghiên cứu gần đây đã khám phá ra rằng giai điệu du dương nhẹ nhàng từ các bài hát ru của mẹ truyên tới cho trẻ cảm giác an toàn và yên bình. Bởi thực tế, trẻ sơ sinh rất nhạy cảm, chúng dễ giật mình thậm chí ngay trong giấc ngủ. Lời hát ru của mẹ cũng đóng vai trò làm trấn an tinh thần của bé, bé ngủ sâu giấc hơn nhiều.

Rèn luyện kĩ năng nói và khả năng ngôn ngữ

Thông thường những bài hát ru thường khá ngắn, sự lặp đi lặp lại những hình ảnh giản dị quen thuộc giúp bé lưu giữ lại trong não bộ dễ dàng. Thói quen thường xuyên được hát ru giúp bé vô hình củng cố âm thanh quen thuộc này, điều này đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Tổng hợp các bài hát ru hay dễ hát dễ thuộc cho trẻ say giấc.

Rèn luyện kỹ năng nghe cho bé

Hát ru còn là một cách để rèn luyện kĩ năng nghe, tiếp thu thông tin cho bé trong những ngày tháng đầu đời. Khi được mẹ hát ru, bé sẽ tập trung lắng nghe tiếng mẹ, não bộ của bé sẽ quen dần với âm thanh ngay khi còn nhỏ. Điều này hỗ trợ cho việc học tập của bé sau này.

Gợi ý làm bài:

Xem tiếp:  Ngữ văn lớp 10 - Ôn tập văn học dân gian Việt Nam

Học sinh tự làm.

Bài 5: Văn bản sau được thuyết minh theo phương pháp nào? Những câu văn nào thể hiện điều đó?

CÂU CHUYỆN CỦA TÔI

 

 

 

 

tại.

Đáng lẽ giờ này mình đang làm cho một tập đoàn hay tổ chức phi chính phủ nào đó.

Đáng lẽ ra giờ này mình đang ngủ say trên giường chứ không dậy từ 5 giờ sáng như thói quen hiện

Đáng lẽ giờ này mình có thể vẫn đang băn khoăn về ý nghĩ cuộc sống, tìm kiếm giá trị thực của cuộc

 

 

sống mà mình muốn theo đuổi…

Nhưng mình lại ngồi đây, trong quầy juice studio nhỏ của riêng mình, trong văn phòng rộng thênh thang nhưng thơm sực mùi hoa quả.Một sáng mưa Hà Nội, những cơn mưa giao mùa luôn nhắc mình về sự kì diệu của cuộc sống, về ý nghĩa từ những việc nhỏ bé mình đang làm mỗi ngày, cho bản thân, gia đình hay cho một cộng đồng những người yêu nước ép, yoga và những thứ tươi đẹp gắn kết họ.

5 năm trước, giống như rất nhiều người vợ, người mẹ, người phụ nữ đi làm khác, mình đã từng loay hoay và mông lung trong rất nhiều khía cạnh của cuộc sống. Bằng cách này hay cách khác, mình đã cố gắng làm đúng hầu hết mọi thứ, từ những thứ tưởng chừng đơn giản như việc nấu gì mỗi ngày, vận động môn gì, đến những thứ mình nghĩ là to tát như công việc hay sự nghiệp, nhưng tự bản thân thấy không ổn ở chỗ nào đó. Mình vẫn uể oải, thiếu năng lượng mỗi sáng thức dậy, mình vẫn quên đang thở, mình vẫn mập, mình vẫn thiếu sức sống, mình vẫn không hiểu bản chất của mọi gắn kết đều đến từ tình yêu thương.

Và mình may mắn khi tìm được hai tình yêu đã thay đổi hoàn toàn cuộc sống của mình: Juice và

Yoga.

Mình tin vào cái duyên trong cuộc sống.

Muốn giải thích lắm, nhưng khi đã là tình yêu rồi thì nó là cái chỉ có thể cảm nhận, là cảm xúc và là trải nghiệm. Chỉ biết rằng, mình tin Juice và Yoga đã góp phần thay đổi cả ba yếu tố căn bản xây dựng nên sức khỏe tổng thể của một người: ăn uống (dinh dưỡng), vận động (tập luyện) và tinh thần (sức khỏe tâm trí).

Juice là cách nhanh nhất để cải thiện tỉ lệ dinh dưỡng từ thực vật trong chế độ ăn uống, là nguồn nuôi dưỡng thuần khiết từ các loại rau củ quả mang năng lượng sống. Mặt khác, những gì chúng ta ăn cuối cùng đều xây dựng nên cơ thể vật lý và ảnh hưởng đến tâm trạng của chính mình.

Yoga là cách nhanh nhất để kết nói với cơ thể và tâm trí thông qua vận động và hơi thở.

Trong con đường trải nghiệm cuộc sống cùng Juice và Yoga nhiều năm qua, con đường khám phá bản thân và năng lượng kì diệu có mặt trong mọi sự sống quanh mình, con đường của sự thay đổi, mình nhận thấy: Mọi thay đổi trong thói quen nhỏ hằng ngày đều sẽ tạo nên con người mình sau này.

Tất cả những biến đổi trong thế giới nội tại lẫn thế giới khách quan bên ngoài đều xuất phát từ những

thay đổi trong thói quen của mình. Chúng ta là sản phẩm của những lựa chọn và thói quen.

Mình mong các bạn có thể đưa ra lựa chọn và thiết lập được những thói quen tích cực trong cuộc sống hằng ngày. Đó có thể đơn giản là thói quen ăn uống, vận động, có thể là thói quen trong suy nghĩ và tư duy.

Và một trong những thói quen bạn nên xây dựng chính là làm nước ép mỗi ngày (tuyệt hơn nữa là tập

yoga mỗi ngày). Không phải điều gì cũng hoàn hảo và đúng với tất cả mọi người nhưng nó đúng với

 

 

mình, với rất nhiều người từ thân quen đến xa lạ đã thay đổi tích cực và hạnh phúc hơn từ khi biết đến Juice và Yoga tại Việt Nam – cộng đồng mà mình tự hào là một phần gây dựng, và với những cuộc sống mình đã được chứng kiến và chạm đến.

Mình tin các thói quen lành mạnh không nhất thiết phải phức tạp.

Mình tin một cuộc sống có juice là cuộc sống đơn giản và hạnh phúc.

Mình tin nước ép đích thực phải làm từ các nguyên liệu chất lượng và an toàn. Mình tin mọi người đều có thể hưởng lợi từ raw juice (nước ép tươi sống).

Cuộc sống của mình là một hành trình hạnh phúc mỗi ngày với juice, yoga và khám phá nội tại. Từ những cuộc đời đã thay đổi tích cực hơn nhờ juice mà mình biết đến và quan sát được, mình luôn muốn truyền tải sự tốt đẹp đó đến càng nhiều người xung quanh và càng nhiều tâm hồn mình chạm đến càng tốt…

Vẫn là bạn đó, nhưng ở phiên bản tươi tắn và yêu đời hơn, đang chờ bạn sau cuốn sách này. Bạn có

sẵn sàng mở lòng cùng mình trải nghiệm những sắc màu tươi tắn từ tự nhiên?

(Lời giới thiệu sách Chào Juice!, Trần Thanh Huyền)

Gợi ý làm bài:

Phương pháp nêu ví dụ, phương pháp so sánh, phương pháp giảng giải…

Bài 6: Cho biết các mở bài sau giới thiệu về đối tượng thuyết minh nào?

  1. Mỗi dân tộc có một tiếng nói riêng, mỗi con người có một nét đặc trưng riêng và mỗi ngôi trường cũng có những sự khác biệt không pha trộn. Sự khác biệt đó được biểu hiện trên chính bộ đồng phục mà hằng ngày các bạn học sinh khoác trên mình. Trường tôi cũng vậy!
  2. Xã hội hiện đại ngày nay khi cuộc sống con người vô cùng tất bật và bận rộn, căng thẳng mệt mỏi là điều khó tránh khỏi? Giải pháp nào giúp chúng ta vượt qua stress để có một sức khỏe tốt? Trung tâm California sẽ giúp bạn!
  3. Sách là tài sản vô giá của nhân loại. Đọc sách là một món ăn tinh thần bổ dưỡng mà hằng ngày chúng ta cần phải có. Nhưng không phải cuốn sách nào cũng làm thỏa mãn những nhu cầu đọc của chúng ta. Với tôi, “Đắc nhân tâm” là một cuốn sách hay và đem lại nhiều điều bổ ích cho mỗi người.
  4. Truyền thống tương thân tương ái là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt. Phát huy tinh thần của truyền thống cao đẹp ấy, hoạt động từ thiện của nhóm từ thiện Thiện Tâm là một trong những hoạt động xã hội có sức lan tỏa đến mọi người.
  5. Trong thế giới phẳng ngày nay, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, con người có nhiều phương thức để liên lạc với nhau. Hữu hiệu, tiện lợi và đáp ứng mọi nhu cầu, chắc hẳn phải kể đến đó là chiếc smartphone.

Gợi ý làm bài:

  1. Thuyết minh về đồng phục trường
  2. Thuyết minh về Trung tâm thể dục thể thao Califonia c. Thuyết minh về cuốn sách “Đắc nhân tâm”

 

 

  1. Thuyết minh về nhóm từ thiện Thiện Tâm e. Thuyết minh về chiếc smartphone.

Bài 7: Hãy làm cho các đoạn mở bài sau thêm hấp dẫn bằng cách thêm một số câu mang giá trị biểu cảm:

  1. Áo dài được coi là quốc phục của Việt Nam. b. Sen là loài hoa đặc trưng của Việt Nam.
  2. Đặc sản của Hà Nội là Cốm.

Gợi ý làm bài:

  1. Duyên dáng thay những nàng thiếu nữ thướt tha trong tà áo dài bay bay trước gió! Đó là hình ảnh của một bộ trang phục đẹp mang theo biết bao nhiêu nét đẹp tâm hồn của người Việt – tà áo dài Việt Nam.
  2. “Trong đầm gì đẹp bằng sen/ Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng”. Trong thê giới của loài hoa đất

Việt, chắc hẳn sen là loài hoa thanh tao và cao quý nhất. Nó được coi là quốc hoa của Việt Nam.

  1. Người đi xa khi nhớ về Hà Nội chắc hẳn ai cũng nhớ về mùa thu – mùa đẹp nhất của Hà Nội. Đó là gió heo may mang theo chút hanh hao lành lạnh khi thu chớm về. Đó là hương hoa sữa nồng nàn ở một góc phố dịu dàng. Và hẳn hương cốm thanh nhã là điều khiến những người yêu Hà Nội lưu luyến nhất.

Bài 8: Viết phần kết bài cho các đề thuyết minh sau:

  1. Thuyết minh về con trâu.
  2. Thuyết minh về các trò chơi dân gian. c. Thuyết minh về ngày khai giảng.

Gợi ý làm bài:

  1. Ngày nay, máy móc hiện đại đã trở nên phổ biến trong nông nghiệp ở nước ta nhưng con trâu vẫn là con vật gần gũi, quen thuộc của những người nông dân nghèo và giữ vai trò quan trọng trong sản xuất.
  2. Cuộc sống hiện đại làm xuất hiện nhiều hình thức giải trí cho con người hưởng thụ nhưng các trò chơi dân gian vẫn luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa Việt không phải vì nó rẻ tiền (thậm chí không mất tiền mua) mà hơn hết là nó mang theo vẻ đẹp tâm hồn, văn hóa Việt.
  3. Ngày khai giảng luôn là dấu ấn khó phai nhòa trong ký ức tuổi thơ của mỗi người. Nó không chỉ đem lại những cảm xúc tươi mới mà nó còn để lại dư âm sâu lắng trong lòng chúng ta trong suốt cuộc đời.

Bài 9: Đoạn văn thuyết minh sau đây mắc lỗi gì? Hãy sửa lại cho đúng.

Thân Nhân Trung (1418 -1499), tự là Hậu Phủ, người làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng (Bắc Giang). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1469, là người nổi tiếng văn chương, được Lê Thánh Tông tin dùng, thường cho vào hầu văn bút. Để phát triển giáo dục, khuyến khích nhân tài, từ năm 1439 trở đi, nhà nước phong kiến triều Lê đặt ra lệ xướng danh, yết bảng, ban áo mũ, cấp ngựa, đãi yến và vinh quy bái tổ cho những người đỗ đạt cao. Khi thành lập hội Tao đàn, Lê Thánh Tông ban cho ông và Đỗ Nhuận (1446 – ?) là Tao đàn phó nguyên súy. Bài Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí – Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442) – do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 thời Hồng Đức. Đây là một trong 82 bài văn bia ở Văn Miếu (Hà Nội).

Gợi ý làm bài:

 

 

Sai cách sắp xếp ý, sắp xếp câu.

Sửa    lại:

Thân Nhân Trung (1418 – 1499), tự là Hậu Phủ, người làng Yên Ninh, huyện Yên Dũng (Bắc Giang). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1469, là người nổi tiếng văn chương, được Lê Thánh Tông tin dùng, thường cho vào hầu văn bút. Khi thành lập hội Tao đàn, Lê Thánh Tông ban cho ông và Đỗ Nhuận (1446 – ?) là Tao đàn phó nguyên súy để phát triển giáo dục, khuyến khích nhân tài, từ năm 1439 trở đi, nhà nước phong kiến triều Lê đặt ra lệ xướng danh, yết bảng, ban áo mũ, cấp ngựa, đãi yến và vinh quy bái tổ cho những người đỗ đạt cao. Khi thành lập hội Tao đàn, Lê Thánh Tông ban cho ông và Đỗ Nhuận (1446 – ?) là Tao đàn phó nguyên súy. Bài Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí — Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442) – do Thân Nhân Trung soạn năm 1484 thời Hồng Đức. Đây là một trong 82 bài văn bia ở Văn Miếu (Hà Nội).

Bài 10: Dựa vào đoạn thơ sau đây, viết một đoạn văn thuyết minh giới thiệu sông Hồng, trong đó có sử dụng những yếu tố biểu cảm, miêu tả:

Ôi sông Hồng mẹ của ta ơi! người chứa chất trong lòng bao điều bí mật

bao kho vàng cổ tích

bao tiễng rên nhọc nhằn

bao xoáy nước réo sôi trong ngực rộng của người bao doi cát ngầm trong lòng người phiêu bạt người quần quại dưới mưa dầm sóng gắt

cho ban mai chim nhạn báo tin xuân cho đơn sơ hạt gạo trắng ngần

cả nhành dâu bé xanh

người cũng cho nhựa ấm.

 

 

Gợi ý làm bài:

(Lưu Quang Vũ)

 

 

Sông Hồng không chỉ chảy trong những câu thơ câu hát mà nó còn là dòng chảy lớn nhất ở miền Bắc, bắt nguồn từ vùng núi Vân Nam (Trung Quốc), dài 1149 km. Đây là dòng sông có lượng nước và phù sa lớn nhất trong hệ thống các con sông của miền Bắc Việt Nam (100 triệu tấn/ năm). Cùng với hệ thống sông Thái Bình, sông Hồng là nguồn bồi đắp phù sa, nước tưới và giao thông vận tải quan trọng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sông Hồng cũng là cái nôi của nền văn minh đồ đồng (Đông Sơn) rực rỡ và nền văn minh lúa nước.

Bài 11: Mục đích của tóm tắt văn bản thuyết minh là gì?

  1. A. Hiểu và ghi nhớ những nội dung cơ bản của văn bản gốc.
  2. B. Phát biểu cảm nghĩ về văn bản gốc.

 

  1. C. Giới thiệu với người khác về đối tượng thuyết minh hoặc văn bản đó.
  2. D. Cả A và C. Gợi ý làm bài: Đáp án C.

Bài 12: Tóm tắt văn bản thuyết minh cần đảm bảo những yêu cầu gì?

  1. A. Sáng tạo hơn so với văn bản gốc
  2. B. Ngắn gọn, rành mạch, sát với nội dung của văn bản gốc
  3. Thể hiện được cảm xúc của người tóm tắt
  4. Thể hiện được quan điểm của người tóm tắt.

Gợi ý làm bài:

Đáp án B.

Bài 13: Tóm tắt văn bản thuyết minh Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) – Phần một: Tác giả (SGK trang 9

– 12)

Gợi ý làm bài:

Học sinh tự làm.

Bài 14: Đọc những văn bản thuyết minh sau, rút ra dàn ý và viết thành đoạn văn tóm tắt.

  1. hát Xẩm – “Nghệ thuật của cội nguồn dân gian”

hát Xẩm là một loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian độc đáo, ra đời đã hơn 700 năm. Bên cạnh giá trị nghệ thuật, hát Xẩm còn là loại hình âm nhạc dân gian mang đậm tính nhân văn, thẩm mỹ và giáo dục về đạo đức, lối sống của mọi tầng lớp trong xã hội.

Theo các tài liệu  nghiên cứu,  hát Xẩm được  hình thành khoảng thế kỷ thứ  XIV. Từ  khi ra đời đến khoảng nửa đầu thế kỷ XX, hát Xẩm được gọi với những tên khác nhau như hát rong, hát dạo… Nhưng trên thực tế, hát Xẩm là thể loại âm nhạc dân gian chuyên nghiệp, một lối diễn xướng dân gian độc đáo trong kho tàng âm nhạc cổ truyền của dân tộc ta, với lối kể tích sâu sắc, khéo léo và hấp dẫn. Thời phong kiến, hát Xẩm là tiếng nói phản kháng lên án những bất công cường quyền, áp bức, những thói hư tật xấu của xã hội, cất lên tiếng nói bênh vực những số phận bất hạnh nghèo khổ bị chà đạp. Sau chiến tranh, các làn điệu Xẩm được các nhạc sĩ, cán bộ văn hóa sử dụng như một công cụ để tuyên truyền chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước.

Theo tài liệu của ông Trần Việt Ngữ – nhà nghiên cứu dân gian lão thành công bố năm 1964 thì hát Xẩm có 8 làn điệu chính: Xẩm chợ; Xẩm xoan (Chênh bong); Huê tình (riềm huê); Xẩm nhà trò (ba bậc); Nữ oán (Phồn huê); Hò bốn mùa; Hát ai; Thập ân. Tuy nhiên, dân gian thường gọi tên các loại Xẩm theo một số tiêu thức khác, đó là gọi theo tên bài Xẩm nổi tiếng như “Xẩm anh Khóa” (theo tên bài thơ được hát theo điệu Xẩm Tiễn chân anh Khoá xuống tàu của Á Nam Trần Tuấn Khải), hoặc theo mục đích, nội dung bài Xẩm như “Xẩm dân vận”, là những bài Xẩm được sáng tác để tuyên truyền, vận động quân chúng và gọi theo môi trường biểu diễn như “Xẩm chợ” và “Xẩm cô đầu” (hay còn gọi là Xẩm nhả tơ, Xẩm ba bậc, Xẩm nhà trò, Xẩm huê tình).

 

Riêng tại Hà Nội, còn có một dòng Xẩm rất đặc trưng mà không đâu có được đó là Xẩm tàu điện, vì nó thường được hát trên tàu điện. Khi xưa, các nghệ nhân Xẩm từ chốn thôn quê khi ra Hà Nội biểu diễn, để làm vừa lòng nhu cầu thẩm mỹ của người dân chốn đô thị, vốn am hiểu và có trình độ trong việc thưởng thức văn hóa, nên các gánh Xẩm đã khéo léo lồng những bài thơ của các thi sĩ như “Anh khóa”, “Cô hàng nước” (của Á Nam Trần Tuần Khải), “Giăng sáng vườn chè”, “Em đi tỉnh về” của Nguyễn Bính… vào các điệu Xẩm, đưa Xẩm đã trở thành loại hình âm nhạc đường phố vô cùng độc đáo, góp phần tạo nên nét đặc sắc riêng văn hóa phố phường của Thăng Long – Hà Nội.

Trong hệ thống làn điệu của Xẩm nói trên, có những làn điệu hấp dẫn, đặc sắc nên nhiều bộ môn nghệ thuật khác như Chèo, Ca trù phải “vay mượn”, như các điệu Xẩm huê tình, Xẩm chợ, Xẩm xoan… Bài Xẩm huê tình khi được các đào nương, kép đàn ca trù du nhập vào trong hình thức ca quán, thường gọi là điệu Xẩm cô đầ u (hay Xẩm nhà trò). Như vậy cũng đủ thấy các nghệ sĩ giáo phường ca trù rất tôn trọng nghệ thuật Xẩm, họ vẫn giữ chữ “Xẩm” ở làn điệu này nhằm chỉ rõ gốc gác của làn điệu.

Cho đến ngày nay, nhiều người vẫn hiểu Xẩm là lối hát của người khiếm thị, ăn xin. Nhưng đúng ra là người khiếm thị đã dùng Xẩm làm phương tiện kiếm sống. Vì thế, hát Xẩm thực sự là một loại hình âm nhạc chuyên nghiệp, chỉ  khác ở chỗ,  sân khấu của họ  chính là đường  phố, là gốc đa, bến nước,  sân đình… hoặc đơn giản chỉ là một góc chợ quê nghèo. Trước đây Xẩm gắn với hoạt động của nhân dân ta trong những vụ nông nhân. Thường thì sau vụ mùa bội thu, những gánh hát Xẩm thường được mời về hát tại tư gia những gia đình giàu có quyền quý.

Trong các loại nghệ thuật âm nhạc truyền thống Việt Nam, có lẽ chỉ duy nhất hát Xẩm được gọi với tư cách là một nghề để kiếm sống. Là sản phẩm của người lao động nên tính chất âm nhạc, lời ca hết sức mộc mạc chân thành, song nó cũng chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc. Lời ca trong hát Xẩm không chỉ phong phú về thể loại như ca dao, tục ngữ, thơ của các tác giả nổi tiếng…, mà còn rất đa dạng về mặt nội dung. Những ca từ của Xẩm hàm chứa những triết lý, những lời răn dạy đạo lý ở đời.

Có một điều độc đáo là, dù nội dung về tình yêu hay đề tài mang tính đấu tranh, dân vận… đều được các nghệ  nhân hát Xẩm “kể” bằng  âm nhạc một  cách hóm hỉnh, dễ  nghe, dễ nhớ.  Không chỉ  là môi trường diễn xướng nơi đông người và dành cho giới bình dân, Xẩm còn chứa đựng những giá trị nghệ thuật cao, được giới trí thức, các nhà nho, những người học cao hiểu rộng yêu thích, có hẳn một dòng Xẩm thính phòng được gọi tên là Xẩm Nhà trò (hay Xẩm nhả tơ, Xẩm cô đầu…) để phục vụ tầng lớp này.

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời gian thịnh đạt nhất của hát Xẩm. Lúc này, không còn đơn thuần là loại hình giải trí lúc nông nhàn, Xẩm đã phát triển thành một nghề kiếm sống của người nghèo nơi thành thị và được truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Trong quá trình phổ biến lối hát Xẩm, có những người mù hoặc nghèo khổ nhưng rất có năng khiếu về âm nhạc đã vận dụng hát Xẩm làm phương tiện kiếm sống, vô hình trung, đưa hát Xẩm trở thành “đặc sản” của những người ăn xin. Lượng người hát Xẩm đông nhất là thời kỳ Pháp thuộc và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

 

Xem tiếp:  Ngữ văn lớp 10 - Trao duyên - Chí khí anh hùng

Có thể nói, một thời gian dài, hát Xẩm đã là món ăn tinh thần của quần chúng lao động. Nó đề cập đến nhiều vấn đề ở mọi khía cạnh, trong mọi tình huống của cuộc sống, từ công cha nghĩa mẹ, tình yêu, tình vợ chồng, tình huynh đệ cho đến những tình cảm riêng tư của mỗi con người, hay những vấn đề mang tính thời sự cập nhật, đả kích và phê phán những thói hư tật xấu của xã hội đương thời… Không chỉ phục vụ cho đám đông ngoài xã hội, người nghệ sĩ Xẩm còn sẵn sàng phục vụ theo yêu cầu như trong dịp cưới xin, ma chay, giỗ kỵ… và thậm chí nhiều khi chỉ đơn giản là “nhờ bác Xẩm đánh tiếng dùm” với cô nàng thôn nữ đang đứng bên đàng…

Một trong những chức năng vô cùng độc đáo của nghệ thuật hát Xẩm là một kênh truyền thông bằng tiếng hát rất hữu hiệu. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, Xẩm địch vận đã xuất hiện và phát huy vai trò tích cực của mình. Để động viên tinh thần đấu tranh anh dũng của các chiến sĩ trong trận tuyên quyết giữ mạch máu lưu thông cầu Hàm Rồng, nghệ nhân Xẩm Minh Sen (Thanh Hoá) đã ôm cây đàn nhị đi khắp mọi nơi trên mặt trận để mang những lời ca hóm hỉnh, mang lại tiếng cười sảng khoái cho các chiến sĩ. Rồi nghệ nhân Xẩm đất Ninh Bình là bà Hà Thị Cầu, người được mệnh danh là người đàn bà hát Xẩm cuối cùng của thế kỷ XX, tuy không hề biết đến mặt chữ, nhưng cách đây hơn nửa thế kỷ đã sáng tác ra bài Xẩm “Theo Đảng trọn đời” theo điệu thập ân với những câu thơ: “Vững tâm theo Đảng nghe con/ Đạp bằng sóng gió sắt son lời thề”. Hay nghệ nhân Vũ Đức Sắc với bài “Tiễu trừ giặc dốt” hưởng ứng Phong trào Bình dân học vụ do Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động…

Tới giữa thế kỷ XX, nghề hát Xẩm vẫn còn với các tên tuổi nghệ nhân tài ba, như: Nguyễn Văn Nguyên

– tức cụ Trùm Nguyên, Vũ Đức Sắc (Hà Nội); Thân Đức Chinh (Bắc Giang); Nguyễn Phong Sắc (Hải Dương), cụ Trùm Khoản (Sơn Tây), cụ Chánh Trương Mậu (Ninh Bình); cụ Đào Thị Mận (Hưng Yên); cụ Trần Thị Nhớn (Nam Định); Trần Thị Thìn, Nguyễn Văn Khôi (Hà Đông)… và nhiều nghệ nhân khuyết danh khác. Tuy nhiên, đến nay, nghệ nhân hát Xẩm chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, đặc biệt những người coi hát Xẩm như một nghề kiếm sống giờ chỉ còn duy nhất nghệ nhân Hà Thị Cầu (vợ út của ông Chánh Trương Mậu – trùm Xẩm đất Ninh Bình khi xưa).

Từ thập niên 60 trở lại đây, vì nhiều nguyên nhân khác nhau do điều kiện môi trường và xã hội, đặc biệt là do những quan niệm sai lầm nên các phường Xẩm dần tan rã và không hoạt động nữa. Các nghệ nhân Xẩm tài danh bước dần vào tuổi xế chiều, rồi lần lượt ra đi, vĩnh viễn đem theo những giá trị nghệ thuật đặc sắc mà họ đã từng lưu giữ và thực hành. Đời sống xã hội của nghệ sĩ Xẩm không còn, nghệ thuật hát Xẩm đã bị lãng quên, tưởng như đã thất truyền.

b.

HÀNG ĐÀO

Phố Hàng Đào là một phố trong khu phố cổ Hà Nội. Phố Hàng Đào nằm theo hướng bắc – nam, dài khoảng 260m. Đầu phía Nam của phố là Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sát bờ hồ Hoàn Kiếm, đầu phía bắc giáp phố Hàng Ngang. Phía tây của phố là các nhà mang số chẵn, phía đông là các nhà mang số lẻ.

 

Tên phố có nguồn gốc từ mặt hàng vải nhuộm đỏ được bán nhiều ở phố. Hiện nay Hàng Đào là phố một chiều cho các phương tiện giao thông và vẫn được coi là phố buôn bán chính, đặc trưng của người Hà Nội.

Phố Hàng Đào đã có từ lâu đời. Tại Hoa Lư xưa cũng đã có phường Hàng Đào. Phố Hàng Đào tại thành Thăng Long xưa thuộc phường Đồng Lạc và Đại Lợi, tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương đời Hậu Lê. Phường Đại Lợi tập trung người làng Đan Loan (Bình Giang, Hải Dương), làng Đình Loan, Đông Cao (Bắc Ninh) chuyên nghề nhuộm tơ lụa có từ thời Trần, Hồ, đến đời Lê đã rất sầm uất. Các nhà bán vải chủ yếu là bán lẻ. Phiên chợ tơ của phố mở vào ngày mồng 1 và 6 âm lịch hàng tháng.

Thời Pháp thuộc, phố mang tên là Rue de la Soie (phố bán lụa). Khi đó dọc phố có lắp đặt đường ray tàu điện bánh sắt chạy từ bờ hồ Hoàn Kiếm đi vườn hoa Hàng Đậu. Ngày nay đường ray tàu điện không còn nữa. Khoảng năm 1925, vải Tây thắng thế, quá nửa phố cho thuê bán vải Tây, hàng truyền thống vắng hẳn. Rồi dần dần phố không còn bán vải nhuộm màu nữa, các chủ hàng có nhiều vốn chuyển sang các loại hàng cao cấp, xa xỉ.

Từ năm 2003, UBND quận Hoàn Kiếm cho phép thành lập tuyến phố đi bộ Chợ đêm Hàng Đào – Đông Xuân vào tối các ngày thứ 6, thứ 7 và Chủ Nhật. Chợ đêm bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, một số đặc sản của Hà Nội phục vụ du khách du lịch. Tuyến phố đi bộ trên chợ đêm Hàng Đào – Đồng Xuân đã tạo nên một nét văn hóa mới của Thủ đô, thu hút được sự quan tâm của nhân dân Thủ đô và du khách đến Hà Nội.

Trong tác phẩm Dư địa chí (thế kỷ 15), Nguyễn Trãi ghi: “Phường Hàng Đào nhuộm điều” Xưa kia phố chuyên nhuộm và bán các loại vải nhuộm đỏ, màu hồng, màu hoa đào và rất nhiều các màu khác. Ngày nay phố không còn bán vải nữa mà bán các hàng quần áo, vật dụng, vàng bạc, thủ công mỹ nghệ, hàng cao cấp và hàng xa xỉ.

Ở phố Hàng Đào hiện còn có một só nhà chuyên vẽ truyền thần, như nhà số 51. Ca dao cổ có câu nói về phố Hàng Đào:

Ôi Quảng Bá, cá Hồ Tây

Hàng Đào tơ lụa làm say lòng người.

 

 

Và có câu hát đối:

Gợi ý làm bài:

  1. Dàn ý

Trên Tràng Thi, dưới lại Tràng Thi Ai đem nhân ngãi tôi đi đằng nào? Trên Hàng Đào, dưới lại Hàng Đào Ai đem nhân ngãi tôi vào Tràng Thi.

 

Mở bài: Giới thiệu hình thức hát Xẩm, hình thức hát lâu đời.

Thân bài:

+Nguồn    gốc hát Xẩm.

 

 

+   Phân loại hát Xẩm.

+Sự    lấn sân của hát Xẩm sang những loại hình nghệ thuật khác.

+Sự    thăng trầm và giá trị của hát Xẩm qua cùng năm tháng.

Kết bài: Những vấn đề đặt ra về sự tồn vong của loại hình nghệ thuật này. b. Dàn ý

Mở bài: Giới thiệu phố Hàng Đào và vị trí địa lý của nó. Thân bài:

+Nguồn    gốc tên gọi.

+Lịch    sử hình thành và những nét độc đáo của con phố.

Kết bài: Dẫn câu ca dao để bộc lộ tình cảm đối với con phố Hàng Đào. Viết đoạn tóm tắt học sinh tự làm.

  1. HỆ THỐNG BÀI TẬP TỰ LUYỆN

Bài 1: Tóm tắt những sự kiện chính của truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên (khoảng 20 – 25 câu). Bài 2: Sáng tạo một kết thúc khác cho truyện Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Lí giải vì sao anh/ chị lại kết thúc như vậy?

Bài 3: Trình bày suy nghĩ của anh/ chị về lời bàn ở cuối truyện: “kẻ sĩ không nên kiêng sợ sự cứng cỏi?” Bài 4: Việc sử dụng từ ngữ, nhịp điệu, hình ảnh, phép điệp từ trong các ví dụ sau góp phần biểu đạt tính hình tượng và tính biểu cảm của lời văn như thế nào?

  1. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm

nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà

lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.

(Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh) b. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

 

 

Bài 5: Cho văn bản sau:

Tà tà bóng ngả về tây

Chị em thơ thẩn dan tay ra về

Bước dần theo ngọn tiểu khê

(Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh)

 

 

Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh

Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

 

 

  1. Từ “nao nao” thường để chỉ đối tượng nào? Trong văn bản trên tác giả đã sử dụng để miêu tả đối tượng

nào? Anh/ chị có nhận xét gì về cách sử dụng từ đó?

  1. Chỉ ra các từ láy trong đoạn thơ trên và chỉ ra đóng góp của chúng đối với nội dung, hình thức của văn bản trên.

Bài 6: Cho các câu văn sau:

Do     lượng mưa năm nay kéo dài nên đã gây nhiều thiệt hại cho mùa màng.

Những     bệnh nhân không cần mổ mắt, được khoa dược tích cực pha chế, điều trị bằng những thứ thuốc tra mắt đặc biệt.

Qua hai     bảng trên cho ta thấy bệnh nhân khám và điều trị tại nhà chiếm trên 50% dân số.

Ba câu văn trên có chỗ nào sử dụng từ ngữ chưa phù hợp 2 Anh/chị hãy chữa lại những chỗ chưa phù

hợp đó để câu văn đạt đúng yêu cầu sử dụng tiếng Việt.

Bài 7: Viết bài thuyết minh về Yoga và cuộc sống hoặc Bóng đá và cuộc sống. Sau đó, em hãy cho biết

em đã sử dụng những phương pháp thuyết minh gì?

Bài 8: Viết đoạn văn thuyết minh về mùa thu Hà Nội.

Bài 9: Viết đoạn văn thuyết minh về Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi).

Bài 10: Sưu tầm một vài văn bản thuyết minh, tìm ra bố cục và viết đoạn văn tóm tắt cho những văn bản thuyết minh ấy.

ĐÁP ÁN Bài 1:

Gợi ý làm bài:

Tóm tắt những sự kiện chính của truyện:

+   Ngô Tử Văn bất bình trước việc yêu quái làm hại dân lành nên châm lửa đốt đền tà.

+   Ngô Tử Văn gặp Thổ công và hồn ma tên Bách Hộ. Thổ công bày cách đấu tranh dưới âm phủ,

tên Bách Hộ quát tháo, đe dọa sẽ kiện ở Minh ti.

+Tử    Văn bị bắt xuống âm phủ, lập tức bị kết án, chàng lớn tiếng đòi công lý.

+   Diêm Vương phải xem xét lại, Tử Văn thắng kiện, Thổ công được trở lại đền, hồn ma tên Bách

Hộ bị đày xuống ngục Cửu u.

+Tử    Văn trở lại trần gian, ít lâu sau nhận chức quan phán sự ở đền Tản Viên theo tiến cử của Thổ

công nên không bệnh mà chết.

+Một    buổi sớm, người làng thấy xe ngựa ầm ầm, Tử Văn hiện ra uy phong lẫm liệt…

Bài 2:

Gợi ý làm bài:

Sáng     tạo một kết thúc khác cho truyện: Tử Văn nhận chức quan phán sự, thường xuyên trở về

giúp dân lành giải quyết những oan ức, bất công, trừng trị những tên quan lại tham lam, độc ác, hại dân…

Chọn     kết thúc này vì: mong ước có một vị quan thanh liêm, vì dân, giúp dân có được công bằng

mà không phải sợ hãi những kẻ xấu, kẻ ác ở đời. Để công lý được thực thi chứ không chỉ là mơ ước.

 

Bài 3:

Gợi ý làm bài:

Khuyên     kẻ sĩ/ người có học không nên sợ hãi, nên giữ gìn sự ngay thẳng, dũng cảm bảo vệ điều đúng, người tốt… đó là bổn phận của kẻ sĩ hay người trí thức.

Hiện     nay, nhiều kẻ sĩ không giữ được phẩm chất này. Họ lo sợ cho lợi ích hay sự an toàn của bản

thân mà né tránh mọi vấn đề xã hội, cũng không giúp đỡ ai vì sợ liên lụy…

Kẻ     sĩ nên linh hoạt trong cách thức xử thế nhưng nên giữ vững nhân phẩm và dám đứng lên bảo vệ cái tốt, điều tốt, người tốt trong xã hội.

Bài 4:

Gợi ý làm bài:

  1. Ví dụ (a)

Việc     sử dụng những câu văn cực ngắn và cách ngắt câu bằng dấu chấm dứt khoát có nhiều tác dụng. Ba câu văn nhưng đã tóm gọn những biến động của thời đại, cho thấy sự thất bại mau chóng của quân xâm lược, bè lũ bán nước, đồng thời thể hiện khí thế chiến thắng dâng cao như triều dâng lũ cuốn của quân dân nước Việt Nam độc lập.

Việc     sử dụng phép điệp câu trúc “Dân ta đã đánh đổ – Dân ta lại đánh đổ” nhấn mạnh sự thắng lợi chóng vánh, tuyệt đối của ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Cách viết nghệ thuật càng thể hiện thái độ dứt khoát, mạnh mẽ và tự hào của Hồ Chí Minh về chiến thắng vẻ vang của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.

  1. Ví dụ (b)

Việc     sử dụng phép điệp cấu trúc “Chúng + hành động tàn bạo” vừa có tác dụng luận tội tội ác của thực dân Pháp, vừa giần giật ngọn lửa căm hờn trước sự độc ác của quân thù.

Việc     sử dụng hình ảnh “tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu” càng làm nổi bật bộ mặt quỷ dữ, hành động vô nhân đạo của thực dân Pháp đối với đồng bào Việt Nam.

Bài 5:

Gợi ý làm bài:

  1. Từ “nao nao” thường sử dụng cho tâm trạng con người. Trong văn bản trên, tác giả dùng từ “nao nao” để miêu tả cảnh vật. Đây là cách dùng từ sáng tạo của tác giả, thể hiện rõ nét sự tài tình trong bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du.
  2. Các từ láy: tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao.

Đóng góp:

+   Làm rõ nét tâm trạng con người (thơ thẩn: sự nuối tiếc).

+Gợi    tả cái thanh nhã và sự chuyển động nhẹ nhàng của không gian chiều xuân (thanh thanh, tà tà)

+Nhuốm    màu tâm trạng của con người lên cảnh vật (nao nao): cảm giác bâng khuâng về ngày xuân

đã trôi qua vẫn còn đó trong tâm trí, thì dự cảm về một điều sắp đến trong tương lai đã xuất hiện. Cái nao

 

nao như báo trước sau đây thôi, Kiều sẽ gặp gỡ những sự kiện, con người có vai trò bản lề trong cuộc đời

nàng.

Bài 6:

Gợi ý làm bài:

  1. a) Câu văn thiếu chủ ngữ.

Chữa: Do lượng mưa năm nay kéo dài nên mùa màng gặp nhiều thiệt hại (thay đổi trật tự từ trong câu) b) Dùng từ không phù hợp với đối tượng: “pha chế” chỉ dùng cho thuốc chứ không áp dụng cho “bệnh nhân”

Chữa: Những bệnh nhân không cần mổ mắt, được Khoa Dược tích cực điều trị bằng những thứ thuốc

tra mắt đặc biệt. (bỏ từ sai)

  1. c) Thừa từ khiến câu văn trở nên thiếu chủ ngữ: thừa từ “cho”.

Chữa: Qua hai bảng trên, ta thấy bệnh nhân khám và điều trị tại nhà chiếm trên 50% dân số. (bỏ từ thừa)

Bài 7: Học sinh tự làm

Bài 8:

Gợi ý làm bài:

Đoạn văn đáp ứng những yêu cầu sau:

+Về    nội dung: giới thiệu được những gì đặc trưng nhất của Hà Nội vào mùa thu (cảnh vật, thời tiết, ẩm thực, con người…)

+   Hình thức: đoạn văn có dung lượng vừa phải, các câu có sự liên kết và có yếu tố biểu cảm.

Bài 9:

Gợi ý làm bài:

Đoạn văn đáp ứng những ý cơ bản sau:

+Giới    thiệu Nguyễn Trãi.

+Giới    thiệu nội dung tác phẩm bằng cách nêu bố cục và nội dung của từng phần.

+Giới    thiệu những đặc sắc về nghệ thuật.

Bài 10: Học sinh tự thực hiện.

Link tải File:

8. Tai ve_Chuyện chức phán sự đền Tản Viên.zip