CĐ10. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953 – 1954)

Chủ đề 10: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953 – 1954), nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:

 

CHỦ ĐỀ 10

CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 – 1954)

  1. ÂM MƯU MỚI CỦA PHÁP – MĨ Ở ĐÔNG DƯƠNG. KẾ HOẠCH NA-VA

– Trải qua tám năm kháng chiến và kiến quốc, lực lượng kháng chiến của nhân dân ta lớn mạnh đáng kể.

– Trong khi đó, phía Pháp bị thiệt hại ngày càng lớn, đến năm 1953 bị loại khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2000 tỉ phrăng. Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế phòng ngự, bị động.

– Ngày 7 – 5 – 1953, với sự thỏa thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tướng Na-va làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh của Pháp ở Đông Dương (thay tướng Xa-lăng). Na-va đề ra kế hoạch chiến lược với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi quyết định để “Kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

– Kế hoạch Na-va được chia thành hai bước:

+ Bước thứ nhất, trong thu – đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng ngự chiến lược để bình định miền Trung và Nam Đông Dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực; tìm cách thanh toán đồng bằng Liên khu V, đồng thời ra sức mở rộng ngụy quân, tập trung binh lực xây dựng đội quân cơ động chiến lược mạnh.

+ Bước thứ hai, từ thu – đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường miền Bắc, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định, buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện có lợi cho chúng và “kết thúc chiến tranh trong danh dự”.

– Từ thu – đông 1953, Na-va tập trung quân cơ động ở Đồng bằng Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn Đông Dương), tiến hành những cuộc càn quét bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi biên giới, mở rộng cuộc tiến công lớn vào Ninh Bình, Thanh Hóa (tháng | 10 – 1953)… để phá vỡ kế hoạch tiến công của ta.

  1. CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953 – 1954
  2. Cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954

– Cuối tháng 9 – 1953, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở Việt Bắc để bàn về kế hoạch

quân sự Đông – Xuân 1953 – 1954.

– Nắm vững nhiệm vụ tiêu diệt địch là chính, phương thức chiến lược của ta trong đông – xuân 1953 –

1954 là “Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà chúng không thể bỏ, do phải phân tán lực lượng mà tạo ra cho ta những điều kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực địch của chúng”.

– Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trong Đông – Xuân 1953 – 1954, quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch ở hầu khắp chiến trường Đông Dương.

 

+ Ngày 10 – 12 – 1953, một bộ phận chủ lực ta tiến công thị xã Lai Châu, ta loại khỏi vòng chiến đấu 24

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ3. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1825 đến 1930

đại đội địch, giải phóng toàn bộ Lai Châu (trừ Điện Biên Phủ).

+ Đầu tháng 12 – 1953, liên quân Lào – Việt mở cuộc tiến công địch ở Trung Lào, giải phóng một phần thị xã Thà Khẹt; bao vây uy hiếp căn cứ Xê-nô.

+ Cuối tháng 1 – 1954, liên quân Lào – Việt tiến công địch ở Thượng Lào giải phóng lưu vực sông Nậm

Hu, toàn tỉnh Phong-xa-lì, căn cứ kháng chiến của nhân dân Lào được mở rộng.

+ Đầu tháng 2 – 1954, quân ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, loại khỏi vòng chiến đấu 2000 địch, giải

phóng toàn tỉnh Kon Tum, một vùng rộng lớn với 20 vạn dân; bảo vây, uy hiếp Playcu.

– Phối hợp với mặt trận chính khi quân chủ lực địch bị giam chân và phân tán nhiều nơi, tại các vùng sau

lưng địch, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh.

Thắng lợi trong Đông – Xuân 1953 – 1954 đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần cho quân dân ta mở cuộc tiến công quyết định Điện Biên Phủ.

  1. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954

– Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi Tây Bắc gần biên giới với Lào, có vị

trí chiến lược then chốt ở Đông Dương và cả ở Đông Nam Á nên Pháp cố nắm giữ.

– Na-va tập trung mọi cố gắng để để xây dựng Điện Biên Phủ thành tập toàn cứ điểm mạnh nhất ở Đông

Dương.

– Địch bố trí thành 3 phân khu: phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản Kéo; phân khu trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt cơ quan chỉ huy, có trận địa pháo, kho hậu cần, sân bay, tập trung 2/3 lực lượng; phân khu Nam có cứ điểm Hồng Cúm, trận địa pháo, sân bay, tổng cộng cả ba phân khu có 49 cứ điểm.

– Đầu tháng 12 – 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp, thông qua kế hoạch tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của chiến dịch là tiêu diệt địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc, tạo điều kiện cho Lào giải phóng Bắc Lào.

– Đầu tháng 3 – 1954, công tác chuẩn bị mọi mặt đã hoàn tất. Ngày 13 – 3 – 1954, quân ta nổ súng tấn

công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

– Chiến dịch Điện Biên Phủ được chia làm ba đợt:

+ Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày 17 – 3 – 1954: Quân ta tiến công tiêu diệt các cứ điểm Him Lam và toàn bộ

phân khu Bắc. Kết quả, ta loại khỏi vòng chiến đấu gần 2000 địch.

+ Đợt 2, từ ngày 30 – 3 đến ngày 26 – 4 – 1954: Quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía đông phân khu trung tâm Mường Thanh như E1, D1, C1, A1,… Ta chiếm phần lớn các cứ điểm của địch tạo thêm điều kiện để bao vây, chia cắt, khống chế địch. Sau đợt này, Mĩ khẩn cấp viện trợ cho Pháp và đe dọa ném bom nguyên tử Điện Biên Phủ; ta kịp thời khắc phục khó khăn về tiếp tế, nâng cao quyết tâm giành thắng lợi.

+ Đợt 3, từ ngày 1- 5 đến ngày 7- 5 – 1945: Quân ta đồng loạt tiến công phân khu Trung tâm Mường

Thanh và phân khu Nam, lần lượt tiêu diệt các điểm đề kháng còn lại của địch. Chiều 7 – 5, quân ta đánh

 

vào Sở chỉ huy địch. 17 giờ 30 ngày 7 – 5 – 1954, tướng Đờ Ca-xtơ-ri (De castrie) cùng toàn bộ Ban tham mưu bị bắt. Lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của quân ta phấp phới tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Ca- xtơ-ri. Tập đoàn cứ điểm ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt.

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ5. Quan hệ quốc tế (1945 – 2000)

– Các chiến trường toàn quốc đã phối hợp chặt chẽ nhằm phân tán, tiêu hao, kìm chân địch, tạo điều kiện

cho Điện Biên Phủ giành thắng lợi.

Kết quả:

+ Cuộc tiến  công chiến lược Đông  – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện  Biên Phủ đã  toàn

thắng. Quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 128.200 địch, thu 19.000 súng các loại, phá 162 máy bay,

81 đại bác, giải phóng nhiều vùng rộng lớn trong cả nước.

+ Riêng mặt trận Điện Biên Phủ, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 16.200 địch trong đó có 1 Thiếu tướng, bắn rơi và phá hủy 62 máy bay các loại, thu toàn bộ vũ khí, phương tiện chiến tranh.

Ý nghĩa:

+ Thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 và chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn kế hoạch Na-va.

+ Giáng đòn quyết định vào ý chí xâm lược của thực dân Pháp, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc đấu tranh ngoại giao của ta giành thắng lợi.

III. HIỆP ĐỊNH GIƠ-NE-VƠ 1954 VỀ ĐÔNG DƯƠNG

  1. Hội nghị Giơ-ne-vơ

– Bước vào đông – xuân 1953 – 1954, đồng thời với cuộc tiến công quân sự, ta đẩy mạnh cuộc đấu tranh

ngoại giao, mở ra khả năng giải quyết bằng con đường hòa bình cuộc chiến tranh ở Đông Dương.

– Tháng 1 – 1954, hội nghị ngoại trưởng bốn nước Liên Xô, Mĩ, Anh, Pháp họp | tại Béc-lin đã thỏa thuận về việc triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơ-ne-vơ để giải quyết vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.

– Giữa lúc quân ta chuẩn bị mở đợt tiến công thứ ba ở Điện Biên Phủ thì ngày 26 – 4 – 1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ chính thức được khai mạc, bàn về vấn đề Triều Tiên. Đến ngày 8 – 5 – 1954, một ngày sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc, Hội nghị Giơ-ne-vơ bắt đầu thảo luận về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương. Phái đoàn chính phủ ta do Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn chính thức được mời họp

– Căn cứ vào điều kiện cụ thể của cuộc kháng chiến cũng như so sánh lực lượng giữa ta với Pháp và xu thế chung của thế giới là giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng thương lượng, Việt Nam đã kí Hiệp định Giơ-ne-vơ ngày 21-7-1954.

  1. Hiệp định Giơ-ne-vơ

Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương bao gồm các văn bản: Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt

Nam, Lào, Cam-pu-chia; bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị và các phụ bản khác…

* Nội dung Hiệp định Giơ-ne-vơ quy định:

 

– Các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia; cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của ba nước.

– Các bên tham chiến thực hiện ngừng bắn, lập lại hòa bình trên toàn Đông Dương.

– Các bên tham chiến thực hiện cuộc di chuyển, tập kết quân đội ở hai vùng:

+ Ở Việt Nam, quân đội nhân dân Việt Nam và quân đội viễn chinh Pháp tập kết ở hai miền Bắc – Nam, lấy vĩ tuyến 17 (dọc theo sông Bến Hải – Quảng Trị) là giới tuyến quân sự tạm thời cùng với một khu phi quân sự ở hai bên giới tuyến.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ4. Phong trào cách mạng 1930 - 1935

+ Ở Lào, lực lượng kháng chiến phục viên tại chỗ, không có vùng tập kết.

– Hiệp định cấm việc đưa quân đội, nhân viên quân sự, vũ khí nước ngoài vào các nước Đông Dương, các nước Đông Dương không được tham gia bất kì khối liên minh quân sự nào và không để cho nước khác dùng lãnh thổ của mình vào việc gây chiến tranh hoặc phục vụ mục đích xâm lược.

– Việt Nam tiến tới thống nhất bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước sẽ được tổ chức vào tháng 7 –

1956 dưới sự kiểm soát và giám sát của một Ủy ban quốc tế (trong đó Ấn Độ làm chủ tịch, cùng hai nước

Ba Lan và Ca-na-đa).

– Trách nhiệm thi hành Hiệp định thuộc về những người kí Hiệp định Giơ-ne-vơ và những người kế tục họ.

Ý nghĩa:

+ Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương là văn bản pháp lí quốc tế ghi nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân các nước Đông Dương và được các cường quốc cùng các nước tham dự Hội nghị cam kết tôn trọng.

+ Nó đánh dấu thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp, song chưa trọn vẹn vì mới giải phóng được miền

Bắc. Cuộc đấu tranh cách mạng vẫn phải tiếp tục nhằm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

+ Với Hiệp định Giơ-ne-vơ, Pháp buộc phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân đội về nước; đế quốc Mĩ thất bại trong âm mưu kéo dài, mở rộng, quốc tế hóa chiến tranh xâm lược Đông Dương.

  1. Ý NGHĨA LỊCH SỬ, NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG

PHÁP (1945 – 1954)

  1. Ý nghĩa lịch sử

– Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp đã chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược, đồng thời chấm dứt ách thống trị của thực dân Pháp trong gần một thế kỉ trên đất nước ta; miền Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để nhân dân ta giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

– Thắng lợi của cuộc kháng chiến đã giáng đòn nặng nề vào tham vọng xâm lược, âm mưu nô dịch của chủ nghĩa đế quốc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, góp phần làm tan rã hệ thống thuộc địa của chúng, cổ vũ mạnh mẽ tinh thần giải phóng dân tộc trên thế giới, trước hết là các nước châu Á, châu Phi, Mĩ La- tinh.

 

  1. Nguyên nhân thắng lợi

– Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo. Toàn dân, toàn quân đoàn kết, dũng cảm trong chiến đấu, trong lao động sản xuất.

– Nhờ hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân trong cả nước, có mặt trận dân tộc thống nhất được củng cố và mở rộng, có lực lượng vũ trang sớm được xây dựng và không ngừng lớn mạnh, có hậu phương rộng lớn, vững chắc về mọi mặt.

– Nhờ tinh thần đoàn kết của nhân dân ba nước Đông Dương chống kẻ thù chung.

– Nhờ có sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và của các nước dân chủ nhân dân khác, của nhân dân Pháp và loài người tiến bộ.

Link tải File:

CHỦ ĐỀ 10. CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG THỰC DÂN PHÁP KẾT THÚC (1953 - 1954)_hoctai.vn.zip