CĐ12. Chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền nam…

Bài tiếp theo Chủ đề 12: Chiến đấu chống chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền nam và chiến tranh phá hoại mlển bắc lần thứ nhất của đế quốc mĩ (1965 – 1968), nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:

 

CHỦ ĐỀ 12:
CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” Ở MIỀN NAM VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MlỂN BẮC LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1965 – 1968)

I.CHIẾN   ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN  TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ Ở MIỀN NAM (1965 – 1968)

1.Chiến   lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở miền Nam

-Sau   thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam,

chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ ” và mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.

-Vừa   mới vào miền Nam, Mĩ đã cho quân mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ của Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mĩ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông – xuân) 1965 – 1966 và 1966 – 1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” và vùng: “đất thánh Việt cộng”.

2.Chiến   đấu chống chiến lưực “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ

-Với    ý chí không gì lay chuyển “Quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ  xâm lược”, được sự phối họp chiến đấu và chi viện của miền Bắc, quân dân ta miền Nam đã anh dũng chiến đấu và liên tiếp giành thắng lợi.

-Ở   Vạn Tường (Quảng Ngãi) vào ngày 18 – 8 – 1965, sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay.

-Vạn   Tường được coi là “Ấp Bắc” đối với quân Mĩ và quân đồng minh, mở đầu cao trào “Tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam. Nhiều “Vành đai diệt Mĩ xuất hiện như ở Hoà Vang, Chu Lai (Quảng Nam), Củ Chi (Sài Gòn)… Phong trào thi đua trở thành “Dũng sĩ diệt Mĩ “Đơn vị anh hùng diệt Mĩ sôi nổi khắp nơi.

-Sau   trận Vạn Tường, khả năng chiến thắng Mĩ trong “Chiến tranh cục bộ” của quân dân ta còn tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô.

-Bước    vào mùa khô thứ nhất (Đông – Xuân 1965 – 1966) với 720.000 quân, trong đó Mĩ và đồng minh hơn 220.000, địch mở đợt phản công với 450 cuộc hành quân, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” lớn, nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Liên khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng. Quân dân ta trong thế trận chiến tranh nhân dân, với nhiều phương thức tác chiến, đã chặn đánh địch trên mọi hướng, chủ động tiến công địch trên khắp mọi nơi.

-Bước    vào mùa khô thứ hai (Đông – Xuân 1966 – 1967), với lực lượng được tăng lên hơn 980.000 quân, trong đó Mĩ và đồng minh hơn 440.000, chúng mở đợt phản công với 895 cuộc hành quân, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” ‘‘bình định ”, lớn nhất là cuộc hành quân Gian-xơ Xi-ti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh) nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta.

-Cùng   với những cuộc chủ động tiến công địch trên chiến trường Trị – Thiên, Đường số 9… quân ta

mở hàng loạt trận phản công đánh bại các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của địch.

-Ớ    hầu khắp các vùng nông thôn, quần chúng được sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã đứng lên đấu tranh chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “Âp chiến lược”. Trong hầu khắp các thành thị, giai cấp công nhân, các tầng lớp nhân dân lao động khác, học sinh, sinh viên, Phật tử, binh sĩ Sài Gòn… đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ. Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế.

-Đến   cuối năm 1967, Mặt trận Giải phóng có cơ quan thường trực ở hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa và ở một số nước thuộc thế giới thứ ba. Cương lĩnh của Mặt trận được 41 nước, 12 tổ chức quốc tế,

5 tổ chức khu vực lên tiếng ủng hộ.

3.Cuộc   Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968)

* Hoàn cảnh:

-Bước    vào mùa xuân 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta sau hai mùa khô.

-Năm    1968, ta lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử Tổng thống (1968), ta chủ trương mở một cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, trọng tâm là đô thị.

*Mục   đích: Nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lượng quân Mĩ, quân đồng minh, đánh đòn mạnh vào chính quyền và quân đội Sài Gòn, giành chính quyền về tay nhân dân, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân

 

về nước.

*Diễn   biến:

-Cuộc   Tổng tiến công và nổi dậy được mở đầu bằng cuộc tập kích chiến lược của quân chủ lực vào

hầu khắp các đô thị trong đêm 30 rạng sáng ngày 31 – 1 – 1968 (đêm giao thừa Tết Mậu Thân).

-Cuộc    Tổng tiến công và nổi dậy diễn ra ba đợt:

+ Đợt 1: Từ ngày 30 – 1 đến 25 – 2 – 1968.

+ Đợt 2: Trong tháng 5 và tháng 6 – 1968.

+ Đợt 3: Trong tháng 8 và tháng 9 – 1968.

-Tại    Sài Gòn, Quân giải phóng tiến công vào các vị trí đầu não của địch, như Toà đại sứ Mĩ, Dinh “Độc lập”, Bộ Tồng tham mưu quân Sài Gòn, Bộ Tư lệnh biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát, Đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất.

*Kết   quả: Từ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ, chống chính quyền Sài Gòn xuất hiện, mặt trận đoàn kết dân tộc chống Mĩ cứu nước được mở rộng. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ hoà bình ở Sài Gòn, Huế và toàn miền Nam, đại diện cho tầng lớp trí thức, tư sản dân tộc tiến bộ ở thành thị được thành lập.

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ6. Cách mạng khoa học – công nghệ và xu hướng toàn cầu

-Cuộc   Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã đánh đòn bất ngờ, làm cho địch choáng váng. Nhưng do lực lượng địch còn đông (hơn nửa triệu lính Mĩ và đồng minh, gần 1 triệu quân đội Sài Gòn), cơ sở ở thành thị mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức lại lực lượng phản công, quân ta gặp không ít khó khăn và tôn thất. Quân cách mạng vào chiếm giữ thành phố trong đợt 1 bị đẩy ra ngoài.

*Ý   nghĩa: Mặc dù có những tổn thất và hạn chế song cuộc Tổng tiến công và nôi dậy có ý nghĩa hết sức to lớn:

-Làm lung lay ý chí xâm   lượcc của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hoá” chiến tranh xâm

lược (tức thừa nhận thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”).

-Mĩ   phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc, chịu đến bàn đàm phán

ở Pa-ri để bàn về chấm dứt chiến tranh.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã mở ra bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của quân dân ta.

II.MIỀN   BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ VỪA SẢN XUẤT (1964 – 1968)

1.Mĩ   tiến hành chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc

-Cuối   năm 1964, đầu năm 1965, đồng thời với đẩy mạnh chiến tranh xâm lược miền Nam. Mĩ mở rộng chiến tranh không quân và hải quân phá hoại miền Bắc.

-Ngày 5 – 8 – 1964 sau khi   dựng lên “Skiện Vịnh Bắc Bộ ”, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc, như cửa  sông Gianh (Quảng  Bình), Vinh – Bến Thuỷ (Nghệ  An), Lạch Trường (Thanh Hoá), thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh).

-Ngày 7 – 2 – 1965,   lấy cớ “trả đũa” việc quân giải phóng miền Nam tiến công doanh trại quân Mĩ ở Plây Cu, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ (Quảng Bình)…, chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ nhất).

-Tiến    hành chiến tranh phá hoại, Mĩ âm mưu phá tiềm lực kinh tế, quốc phòng, phá công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; ngăn chặn nguồn chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào miền Nam; uy hiếp tinh thần, làm lung lay ý chí chống Mĩ của nhân dân ta ở hai miền đất nước.

-Máy bay, tàu   chiến Mĩ ném bom, bắn phá liên tục, khắp mọi nơi, mọi lúc, trong mọi thời tiết, với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày có 300 lần máy bay đi gây tội ác với 1600 tấn bom đạn trút xuống các làng mạc, phố xá. Bom đạn của chúng đã cưóp đi biết bao sinh mạng và gây thương tích cho bao nhiêu người khác. Bom đạn của chúng đã tàn phá biết bao của cải, cơ sở kinh tế, công trình văn hoá, giáo dục, y tế mà nhân dân ta đã tạo nên trong hơn 10 năm trước.

2.Miền   Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương lớn

-Là   hậu phương lớn của kháng chiến chống Mĩ cứu nước, miền Bắc luôn hướng về miền Nam. Vì miền Nam ruột thịt, miền Bắc phấn đấu “‘Mỗi người làm việc bằng hai”. Vì tiền tuyến gọi, hậu phương sẵn sàng đáp lại “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”.

-Tuyến   đường vận chuyển chiến lược Bắc  – Nam mang tên Hồ  Chí Minh trên bộ (dọc  dãy núi Trường Sơn) và trên biển (dọc theo bờ biển) bắt đầu khai thông từ tháng 5 – 1959, dài hàng nghìn cây số, đã nối liền hậu phương với tiền tuyến.

 

Qua hai tuyến đường vận chuyển chiến lược đó, trong 4 năm (1965 – 1968) miền Bắc đã đưa hơn 300.000 cán bộ, bộ đội vào miền Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu, xây dựng kinh tế, văn hoá tại các vùng giải phóng, và cũng đã gửi vào Nam hàng chục vạn tấn vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dâu, lương thực, thực phâm, thuốc men và nhiều vật dụng khác. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc chuyển vào Nam trong 4 năm đã tăng gấp 10 lần so với thời kì trước.

III.CHIẾN   ĐẤU  CHỐNG  CHIẾN  LƯỢC  “VIỆT   NAM  HOÁ  CHIÊN  TRANH”  VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HOÁ CHIẾN TRANH” CỦA ĐỂ QUỐC MĨ (1969 -1973)

1.Chiến   lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và Đông Dương hoá chiến tranh” của đế quốc Mĩ.

-Đầu   năm 1969, Ních-Xơn vừa lên nắm chính quyền đã đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế” (thay cho chiến lược “Phản ứng linh hoạt” của Ken-nơ-đi) và tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới; thực hiện chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương với chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”.

-Chiến   lược “Việt Nam hoá chiến tranh” được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu,

có sự phối hợp về hoả lực và không quân Mĩ, và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn.

2.Chỉến   đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh” của

-Chiến   đấu chống chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” là chống lại cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện được tăng cường và mở rộng ra toàn Đông Dương, vừa chiến đấu chống địch trên chiến trường, vừa đấu tranh với địch trên bàn đàm phán.

-Thăng   lợi chính trị mở đầu giai đoạn chống “Việt Nam hoá chiến tranh” là sự ra đời của Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam ngày 6 – 6 – 1969. Đó là chính phủ của nhân dân miền Nam. Vừa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời đã được 23 nước công nhận, trong đó có 21 nước đặt quan hệ ngoại giao.

-Giữa   lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cửu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đang trên đà thắng lợi, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời ngày 2 – 9 – 1969. Đó là một tổn thất lớn, không gì có thể bù đắp đối với dân tộc ta, đối với cách mạng nước ta.

-Thực   hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ở hai miền đẩy mạnh kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

Trong hai năm 1970 – 1971, nhân dân ta cùng với nhân dân hai nước Cam-pu-chia và Lào giành những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược trên mặt trận quân sự và chính trị.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ6. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945

+ Trong hai ngày 24 và ngày 25 – 4 – 1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam – Lào – Cam-pu- chia họp nhằm biểu thị quyết tâm của nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết chiến đấu chống Mĩ.

+ Từ ngày 30-4 đến ngày 30 – 6 – 1970, quân đội Việt Nam có sự phối họp của quân dân Cam-pu- chia đã đập tan cuộc hành quân xâm lược Cam-pu-chia của quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu

17.000 địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn đất đai với 4,5 triệu dân.

+ Từ ngày 12-2 đến ngày 23 – 3 – 1971, quân đội Việt Nam có sự phối hợp của quân dân Lào đã tập tan cuộc hành quân mang tên “Lam Sơn – 719” chiếm giữ đường 9 – Nam Lào của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 22.000 địch, đuổi hết quân Mĩ và quân đội Sài Gòn khỏi đường 9 Nam Lào, giữ hành lang chiến lược cách mạng Đông Dương.

-Thắng   lợi trên mặt trận quân sự đã hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh chính trị, chống “bình

định” của giặc.

+ Ở khắp các thành thị, phong trào của các tầng lóp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt ở Sài Gòn, Huế, Đà Nằng, phong trào học sinh, sinh viên nổ ra rầm rộ đã thu hút đông đảo giới trẻ tham gia. Phong trào tuổi trẻ, học sinh, sinh viên có vai trò quan trọng, thường là “Phong trào châm ngòi nổ” cho phong trào chung của tầng lóp nhân dân thành thị.

+ Tại các vùng nông thôn, đồng bằng, rừng núi, ven thị, khắp nơi có phong trào của quần chúng nổi dậy chống “bình định”, phá “ấp chiến lược” của địch. Đen đầu năm 1971, cách mạng giành quyền làm chủ thêm 3600 ấp với 3 triệu dân.

3.Cuộc   tíến công chiến lược năm 1972

-Bước    vào năm 1972, quân ta mở cuộc tiến công chiến lược từ ngày 30-3 đánh vào Quảng Trị, lấy Quảng Trị làm hướng tiến công chủ yếu, rồi phát triển rộng ra khắp chiến trường miền Nam, kéo dài trong năm 1972.

-Quân ta   tiến công địch với cường độ mạnh, quy mô lớn, trên hầu khắp các địa bàn chiến lược quan

 

trọng. Chỉ trong thòi gian ngắn (đến cuối tháng 6-1972), quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch,  là Quảng Trị,  Tây Nguyên, Đông  Nam Bộ, loại khỏi  vòng chiến đấu hơn  20 vạn địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn và đông dân.

-Sau   đòn mở đầu bất ngờ của quân ta, quân đội Sài Gòn có sự yểm trợ của Mĩ đã phản công lại, gây cho ta nhiều thiệt hại; còn Mĩ trở lại chiến tranh phá hoại miền Bấc.

Cuộc tiến cồng chiến lược năm 1972 đã giảng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bồ “Mĩ hoá” trở lại chiến tranh xâm lược (tức thừa nhận thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh ”).

IV.MIỀN   BẮC  KHÔI PHỤC  VÀ PHÁT TRIỂN  KINH TẾ  – XÃ HỘI, CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ HAI CỦA MĨ (1969 -1973)

1.Miền   Bắc khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội

-Trên   khắp miền Bắc dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất, nhằm trước hết

khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội.

+ Trong nông nghiệp, ta có một số chủ trương khuyến khích sản xưất. Chăn nuôi được đưa lên thành ngành chính. Các hợp tác xã tích cực áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật, nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ. Nhờ đó, nhiều hợp tác xã đạt được mục tiêu 5 tấn, một số hợp tác xã đạt từ 6 đến 7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 tăng hơn 60 vạn tấn so với năm 1968.

+ Trong công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp trưng ương và địa phương bị tàn phá được khôi phục nhanh chóng. Nhiều công trình đang làm dang dở được ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp, đưa vào hoạt động.

+ Hệ thống giao thông vận tải, nhất là các tuyến giao thông chiến lược, bị phá hoại nặng nề được khẩn trương khôi phục.

+ Văn hoá, giáo dục, y tế, cũng nhanh chóng được khôi phục và phát triển. Đời sống nhân dân ổn định. Một số khó khăn do sai lầm khuyết điểm của ta trong chỉ đạo, quản lí kinh tế – xã hội bước đầu được khắc phục.

2.Miền   Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại vừa sản xuất

-Ngày 6 – 4 – 1972,   Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi thuộc khu IV cũ. Ngày 16 – 4 –

1972, Nich-xơn tuyên bố chính thức gây ra cuộc chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc (lần thứ hai); đến ngày 9 – 5 – 1972, tuyên bố phong toả cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, luồng lạch, vùng biển miền Bắc.

-Nhờ   được chuẩn bị trước và với tư thế luôn luôn sẵn sàng chiến đấu, miền Bắc đã có thể chủ động, kịp thời chống trả địch ngay từ trận đầu.

-Ngày 14 – 12 – 1972,   gần 2 tháng sau khi tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, để hỗ trợ cho mưu đồ chính trị – ngoại giao mới, Nich-xơn phê chuẩn kế hoạch mở cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội và Hải Phòng bắt đầu từ chiều tối 18 đến hết ngày 29 – 12 –

1972.

-Quân dân ta   ở miền Bắc đã đánh trả địch những đòn đích đáng ngay từ trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích không quân của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”. Ta đã bắn rơi 81 máy bay (trong đó 34 máy bay B52, 5 máy bay Fill), bắt sống 43 phi công Mĩ. Tính chung, trong cả cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai (từ ngày 6 – 4 – 1972 đến 15 “ 1 – 1973), miền Bắc bắn rơi 735 máy bay Mĩ (trong đó có 61 máy bay B52, 10 máy bay Fill), bắn chìm 125 tàu chiến, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm phi công Mĩ.

“Điện    Biên Phủ trên không ” là trận thắng quyết định của ta đã buộc Mĩ phải tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (ngày 15 – 1 – 1973) và kí Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (ngày 27 – 1 – 1973).

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ5. Quan hệ quốc tế (1945 – 2000)

3.Miền   Bắc thực hiện nghĩa vụ hậu phương ỉớn

Trong điều kiện tương đối hoà bình, cả trong chiến tranh phá hoại, miền Bắc đã tập trung lớn khả năng về lực lượng và phương tiện để khắc phục kịp thời hậu quả của những trận đánh phá ác liệt, vượt qua những cuộc bao vây phong toả gắt gao của địch, bảo đảm tiếp nhận tốt hàng viện trợ từ bên ngoài và chi viện theo yêu cầu của tiền tuyến miền Nam, có cả chiến trường Lào và Cam-pu-chia.

V.ĐẤU   TRANH TRÊN MẶT NGOẠI GIAO, HIỆP ĐỊNH PA-RI 1973 VỀ CHẤM DỬT CHIẾN

TRANH Ở VIỆT NAM

  1. Đấu tranh đòi Mĩ xuống thang chiến tranh và thương lượng ở Hội nghị Pa-ri

 

-Đầu   1967, sau thắng lợi trong hai mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967, ta chủ trương mở thêm mặt trận tiến công ngoại giao, nhằm tố cáo tội ác của bọn xâm lược Mĩ, vạch trần luận điệu hoà bình bịp bợm của chúng, nêu tính chất chính nghĩa, lập trường đúng đắn của ta, tranh thủ rộng rãi sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế.

-Mục   tiêu đấu tranh ngoại giao trước mắt của ta là đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá

hoại miền Bắc, coi đó là điều kiện tiên quyết để đi đến thương lượng ở bàn hội nghị.

-Ngày 31 – 3 – 1968, sau   đòn bất ngờ của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân của quân ta, Giôn-xơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và bắt đầu nói đến thương lượng với Việt Nam.

-Ngày 13 – 5 – 1968,   cuộc thương lượng chính thức hai bên, giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân

chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Hoa Kì ở Pa-ri họp phiên đầu tiên.

-Ngày 1 – 11 – 1968,   Giôn-xơn tuyên bố ngùng ném bom bắn phá trên toàn miền Bắc. Từ đây, đấu tranh giữa ta và Mĩ chủ yếu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất về hình thức Hội nghị bốn bên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (sau đó là Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam), Hoa Kì và Việt Nam Cộng hoà (Chính quyền Sài Gòn).

-Hội    nghị bốn bên về Việt Nam chính thức họp phiên đầu tiên ngày 25 – 1 – 1969 tại Pa-ri.

2.Hiệp   định Pa-ri 1973 về chấn dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam

-Quan    điểm của ta: đòi Mĩ rút hết quân của mình và quân đồng minh khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam.

-Phía    Mĩ có quan điểm ngược lại, nhất là vấn đề rút quân, đòi quân đội miền Bắc cũng rút khỏi miền Nam, và từ chối kí dự thảo Hiệp định do phía Việt Nam đưa ra (tháng 10 – 1972) để mở cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong 12 ngày đêm cuối năm 1972 với ý đồ buộc phía Việt Nam kí dự thảo Hiệp định do Mĩ đưa ra.

-Nhưng    Mĩ đã thất bại, Việt Nam đã đập tan cuộc tập kích không quân bằng máy bay B52 của Mĩ, làm nên trận “Điện Biên Phủ trên không”, sau đó buộc Mĩ trở lại kí dự thảo Hiệp định Pa-ri do ta đưa ra trước đó.

-Hiệp    định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được kí tắt ngày 23 – 1 – 1973 giữa đại diện hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hoa Kì, và kí chính thức ngày 27 – 1 – 1973 giữa bốn bộ trưởng đại diện cho các chính phủ tham dự hội nghị tại Pa-ri. Hiệp định Pa-ri bắt đầu có hiệu lực từ ngày kí chính thức.

-Nội    dung Hiệp định gồm những điều khoản cơ bản:

+ Hoa Kì và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của

Việt Nam.

+ Cuộc ngừng bắn ở miền Nam Việt Nam được thực hiện vào 24 giờ ngày 27 – 1 – 1973. Hoa Kì cam kết chấm dứt mọi hoạt động quân sự chống miền Bắc Việt Nam.

+ Hoa Kì rút hết quân đội của mình và quân đồng minh trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kí Hiệp định, huỷ bỏ các căn cứ quân sự, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.

+ Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị thông qua tông tuyên cử tự do, không có sự can thiệp của nước ngoài.

+ Hai miền Nam – Bắc Việt Nam sẽ thương lượng về việc thống nhất đất nước không có sự can

thiệp của nước ngoài.

+ Hai bên tiến hành trao trả tù binh và dân thường bị bắt.

+ Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị (lực lượng cách mạng, lực lượng hoà bình trung lập và lực lượng chế độ Sài Gòn).

+ Hoa Kì cam kết góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam và Đông Dương tiến tới thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cùng có lợi giữa hai nước.

– Ý nghĩa:

+ Hiệp định Pa-ri về Việt Nam là thắng lợi của sự kết họp giữa đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao, là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất của quân dân ta ở hai miền đất nước, mở ra bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc.

 

+ Với Hiệp định Pa-ri, Mĩ phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, phải rút hết quân về nước. Đó là thắng lợi lịch sử quan trọng, tạo ra thời cơ thuận lợi để nhân dân ta tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam.

Link tải File:

CHỦ ĐỀ 12 CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH CỤC BỘ Ở MIỀN NAM VÀ CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI MlỂN BẮC LẦN THỨ NHẤT CỦA ĐẾ QUỐC MĨ (1965.zip