Phần 1: Lịch sử Việt Nam – CĐ6. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945
Tiếp Chủ đề 6. Phong trào dân chủ 1936 – 1939, nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:
CHỦ ĐỀ 6
PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC 1939 – 1945
- VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI (1939 – 1945)
- Tình hình chính trị
– Ngày 1 – 9 – 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ngày 3 – 9 – 1939, Pháp tuyên chiến với Đức. Sau khi tham chiến, chính phủ Pháp thực hiện chính sách thù địch đối với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở các thuộc địa.
– Tháng 6 – 1940, Pháp đầu hàng Đức. Ở Đông Dương, chính quyền mới của Pháp thực hiện một loạt chính sách vơ vét sức người, sức của của Việt Nam dốc vào cuộc chiến tranh.
– Cuối tháng 9 – 1940, quân Nhật vượt biên giới Việt – Trung vào miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ máy thống trị của thực dân Pháp, dùng nó để bóc lột kinh tế phục vụ cho nhu cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Việt Nam bị đặt dưới ách thống trị của Nhật – Pháp.
– Ở Việt Nam lúc này không chỉ có những đảng phái thân Pháp mà cả những đảng phái thân Nhật, như Đại Việt, Phục Quốc… Nhật và tay sai ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh và sức mạnh của Nhật, về thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho Nhật hất cẳng Pháp.
– Tháng 6 – 1941, Đức tấn công Liên Xô. Cuộc chiến đấu của nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến
tranh vệ quốc đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng Việt Nam.
- Tình hình kinh tế – xã hội
- Kinh tế
– Thực dân Pháp thi hành chính sách “Kinh tế chỉ huy”. Chúng tăng mức thuế cũ, đặt thêm mức thuế mới… đồng thời sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm… Chúng kiểm soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả…
– Khi Nhật và Đông Dương, Pháp buộc phải để cho Nhật sử dụng phương tiện giao thông kiểm soát hệ thống đường sắt và các tàu biển. Nhật còn bắt chính quyền thực dân Pháp hằng năm nộp cho chúng khoản tiền lớn
– Quân Nhật còn cướp ruộng đất của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để trồng đay, thầu dầu phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.
– Nhật yêu cầu chính quyền thực dân Pháp xuất cảng các nguyên liệu chiến lược sang Nhật với giá
rẻ so với giá của thị trường thế giới như than, sắt, cao su, xi măng v.v…
– Một số công ti của Nhật đầu tư vào những ngành phục vụ cho nhu cầu quân sự như khai thác mangan, sắt Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai, crôm ở Thanh Hóa.
- Xã hội
– Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ cùng cực. Hậu quả là cuối năm 1944 đến năm 1945 có tới 2 triệu đồng bào ta chết đói.
– Tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta, trừ bọn tay sai đế quốc, đại địa chủ tư sản mại bản, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp – Nhật.
+ Công nhân bị bóc lột nặng nề phải làm việc từ 10 đến 12 giờ/ngày, tiền lương giảm, giá cả sinh
hoạt đắt đỏ.
+ Nông dân phải chịu sưu cao, thuế nặng, phải đi lính, đi phu, bị cưỡng bức nhổ lúa trồng đay, thầu dầu.
+ Tiểu tư sản trí thức, viên chức mất việc làm hoặc bị giảm lương; tiểu thương bán ế hàng, nhiều tiểu chủ phải ngừng sản xuất.
+ Tư sản dân tộc vừa bị chính sách “Kinh tế chỉ huy” làm cho phá sản, vừa bị thiệt hại về sức mua
của nhân dân giảm sút.
+ Địa chủ vừa và nhỏ bị thiệt hại và bị phá sản vì chiến tranh, do phải nộp thóc tạ, chịu thuế cao.
Những biến chuyển đó của tình hình thế giới và trong nước đặt ra cho Đảng ta phải nắm bắt kịp thời tình hình có đánh giá chính xác, đề ra đường lối đấu tranh phù hợp.
- PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC TỪ THÁNG 9 – 1939 ĐẾN THÁNG 3 – 1945
- Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì giải phóng dân tộc 1939 – 1941
- a) Chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương
Tháng 11 – 1939, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 được triệu tập tại Bà Điểm
(Hóc Môn – Gia Định) do Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư chủ trì.
– Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và bọn tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập.
– Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi của dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu lập chính quyền Xô viết công – nông – binh được thay thế bằng khẩu hiệu chính quyền Dân chủ cộng hòa.
– Về phương pháp đấu tranh, Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang đấu tranh đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp.
– Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận
dân chủ Đông Dương.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 11 – 1939) đánh dấu sự mở đầu cho việc
thay đổi chủ trương đấu tranh của Đảng.
- b) Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới
– Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27 – 9 – 1940)
Mặc dù thực dân Pháp đã nhượng bộ mọi yêu sách, Nhật vẫn thực hiện kế hoạch đánh chiếm
Đông Dương.
+ Ngày 22 – 9 – 1940, quân Nhật vượt qua biên giới Việt – Trung, đánh chiếm Lạng Sơn, ném bom
Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn.
+ Ở Lạng Sơn, quân Pháp bị tổn thất nặng nề. Số lớn quân Pháp đầu hàng, số còn lại rút chạy về
Thái Nguyên qua đường Bắc Sơn.
+ Đêm ngày 27 – 9 – 1940, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương đã nổi dậy đánh quân Pháp, chiếm đồn Mỏ Nhài. Ngụy quyền ở Bắc Sơn tan rã. Nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập.
+ Tuy Pháp và Nhật mâu thuẫn với nhau nhưng đều hoảng sợ trước lực lượng cách mạng, đã nhanh chóng cấu kết lại. Mấy hôm sau Nhật thả tù binh Pháp và cho quân Pháp trở lại đóng các đồn bốt ở Lạng Sơn. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố phong trào cách mạng Bẳc Sơn. Chúng đốt phá làng bản, dồn làng, tập trung dân, bắt giết những người tham gia khởi nghĩa.
– Ý nghĩa và bài học kinh nghiệm của khởi nghĩa Bắc Sơn
+ Nó mở đầu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc sau khi có chủ trương chuyển hướng đấu tranh của Đảng.
+ Khởi nghĩa Bắc Sơn giúp Đảng ta rút ra những bài học quý báu về khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ, quyết tâm giành thắng lợi.
– Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 – 11 – 1940)
+ Tháng 11 – 1940 xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Xiêm (Thái Lan). Chính quyền thực dân Pháp bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn. Nhân dân Nam Kì và binh lính đấu tranh không đưa lính ra mặt trận.
+ Trong bối cảnh đó, Xứ ủy Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa và cử đại biểu ra
Bắc xin chỉ thị của Trung ương.
+ Từ ngày 6 đến 9 – 11 – 1940, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 được triệu tập tại Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh), đề ra chủ trương trong tình hình mới. Hội nghị quyết định đình chỉ khởi nghĩa vũ trang ở Nam Kì vì thời cơ chưa chín muồi.
+ Người mang chỉ thị hoãn khởi nghĩa Nam Kì của Trung ương Đảng khi về đến Sài Gòn thì bị địch bắt. Lệnh khởi nghĩa Xứ ủy đã đến tận địa phương nên cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra đúng thời gian quy định là rạng sáng ngày 23 – 11 – 1940.
+ Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ: Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng đã thành lập ở nhiều nơi. Từ trong khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng.
+ Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp đã kịp thời đối phó. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, bắt nhiều người.
+ Lực lượng nghĩa quân còn lại phải rút về Đồng Tháp và U Minh để củng cố lực lượng.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, sẵn
sàng đứng lên chiếu đấu chống quân thù.
– Cuộc binh biến Đô Lương (13 – 1 – 1941)
Trong khi thực dân Pháp khủng bố dữ dội những người tham gia khởi nghĩa Nam Kì, tại miền Trung, những binh lính người Việt trong quân đội Pháp đã làm binh biến, chống lại việc Pháp đưa binh lính người Việt sang Lào đánh nhau với quân Thái Lan.
+ Ngày 13-1-1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đã đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ô tô tiến về Vinh để phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. Nhưng kế hoạch không thực hiện được. Quân Pháp đã kịp thời đối phó. Hôm sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt. Ngày 11 – 2 – 1941, Đội Cung bị sa vào tay giặc.
+ Ngày 24 – 4 – 1941, thực dân Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí của ông. Nhiều người
khác bị kết án khổ sai đưa đi đày.
Kết luận: Trong thời gian 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở 3 miền đất nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia đã nêu cao tinh thần bất khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đều thất bại vì điều kiện chưa chín muồi, nhưng “Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương”.
- Công cuộc chuẩn bị Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
- a) Nguyễn Ái Quốc trực tiếp lãnh đạo cách mạng, hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu
tranh
– Ngày 28 – 1 – 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Sau một thời gian
chuẩn bị, Người triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8 tại Pắc Bó (Hà Quảng – Cao Bằng) từ
ngày 10 đến 19 – 5 – 1941.
– Hội nghị khẳng định chủ trương đúng đắn của hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 11 – 1939) và lần thứ 7 (tháng 11 – 1940), nhưng đề cao hơn nữa là nhiệm vụ giải phóng dân tộc, đưa nó lên hàng đầu. “Cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”.
– Hội nghị tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày” thay bằng khẩu hiệu
“tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc Việt gian chia cho dân cày nghèo”, thực hiện giảm tô, giảm tức.
– Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất riêng cho mỗi nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia để phát huy tinh thần dân tộc của từng nước – Việt Nam độc lập đồng minh, Ai Lao độc lập đồng minh, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh.
– Hội nghị quyết định xúc tiến công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Đó là nhiệm vụ trung tâm
của Đảng giai đoạn hiện tại.
– Hội nghị chính thức bầu Ban chấp hành Trung ương mới, bầu Trường Chinh làm Tổng Bí thư.
Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chuyển hướng đấu tranh được đề ra từ Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (thảng 11 – 1939).
– Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời. Năm tháng sau, Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ Việt Minh công bố chính thức. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp nhân dân ủng hộ.
- b) Công cuộc chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
* Xây dựng lực lượng chính trị:
– Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao
Bằng là nơi thí điểm cuộc vận động xây dựng các Hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm
1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội cứu quốc, trong đó có ba châu “hoàn toàn”. Tiếp đó, ủy ban
Việt Minh tỉnh Cao Bằng và ủy ban Việt Minh lâm thời liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập.
– Ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung, ở Hà Nội, Hải Phòng hầu hết đều thành lập các
Hội phản đế, đồng thời nhiều Hội cứu quốc mới được thành lập.
– Trong khi chú trọng tới công nhân và nông dân, Đảng còn tranh thủ tập hợp rộng rãi các tầng lớp khác như sinh viên, học sinh, trí thức, tư sản dân tộc vào mặt trận cứu nước. Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương Văn hóa Việt Nam, vận động thành lập Hội văn hóa cứu quốc Việt Nam và Đảng Dân chủ Việt Nam đứng trong Mặt trận Việt Minh. Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương chống phát xít.
* Xây dựng lực lượng vũ trang:
Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng được Đảng đặc biệt coi trọng.
– Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, một bộ phận lực lượng khởi nghĩa vũ trang chuyển
sang xây dựng thành những đội du kích hoạt động ở những căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai.
– Bước sang năm 1941, những đội du kích Bắc Sơn lớn mạnh lên và thống nhất lại thành Trung đội cứu quốc quân I (ngày 1 – 5 – 1941). Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7 – 1941 đến tháng 2 – 1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán thành nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dựng cơ sở chính trị trong quần chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội cứu quốc quân II ra đời.
* Xây dựng căn cứ địa cách mạng:
– Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng cũng được Đảng quan tâm. Vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai
được xây dựng thành căn cứ địa cách mạng.
– Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển. Như vậy là cùng với Bắc Sơn – Vũ Nhai, Cao Bằng trở thành hai trung tâm căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta.
* Công cuộc chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa:
– Từ đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến có lợi cho cách mạng. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân Đức, sự thất bại của chủ nghĩa phát xít đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
– Từ ngày 25 đến 28 – 2 – 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp ở Võng La (Đông Anh – Phúc Yên). Hội nghị đã vạch ra một kế hoạch cụ thể về công cuộc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang.
– Tại các tỉnh vùng núi phía Bắc, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa diễn ra khẩn trương. Ở căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh, tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá trình đó, Trung đội cứu quốc quân III ra đời (25 – 2 – 1944). Ở căn cứ Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban “xung phong Nam tiến” để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các tỉnh miền xuôi
– Ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “Sửa soạn khởi nghĩa ” và kêu gọi
nhân dân “Sắm vũ khí đuối thù chung”.
– Tháng 10 – 1944, tại Vũ Nhai, một cuộc khởi nghĩa nổ ra ngoài kế hoạch chung và đã bị tổn thất.
Trung ương chỉ thị chuyển thành chiến tranh du kích để bảo toàn lực lượng.
– Cũng trong thời gian trên, Liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng chuẩn bị phát động khởi nghĩa. Hồ Chí
Minh đã kịp thời trì hoãn khởi nghĩa vì chưa đúng thời cơ, nên đã tránh được tổn thất lớn.
– Ngày 22 – 12 – 1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập. Sau khi ra đời, đội đã đánh thắng liên tiếp ở hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Căn cứ Cao – Bắc – Lạng được củng cố và mở rộng.
– Giữa tháng 5 – 1945, hai đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân hợp nhất thành Việt Nam Giải phóng quân.
Công cuộc chuẩn bị vẫn tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa.
III. CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 THÀNH CÔNG, NƯỚC VIỆT NAM DÂN
CHỦ CỘNG HÒA ĐƯỢC THÀNH LẬP
- Cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
- Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến tháng 8 – 1945)
* Nhật đảo chỉnh Pháp:
– Đầu năm 1945, Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béc-lin, sào huyệt cuối cùng của phát xít Đức. Một loạt nước Đông Âu được giải phóng.
– Ở mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân đồng minh giáng cho Nhật những đòn nặng nề.
– Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời cơ phản công quân Nhật, mâu thuẫn Nhật – Pháp trở nên gay gắt.
– Trước tình hình đó, quân Nhật ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày 9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyên bố cái gọi là “giúp dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập”. Chúng dựng lên chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm “Quốc trưởng”. Thực ra là Nhật độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của nhân dân ta và đàn áp dã man những người cách mạng.
* Chủ trương của Đảng:
– Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Đình Bảng (Từ
Sơn – Bắc Ninh), ngày 12 – 3 – 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau
và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị nhận định: cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc, nhưng những điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp – Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít
Nhật”.
– Hình thức đấu tranh từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang, du kích và
sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện.
– Hội nghị chủ trương phát động “cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa”.
* Cao trào kháng Nhật cứu nước chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa:
– Ở khu căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng hàng loạt châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền nhân dân được thành lập, các Hội cứu quốc được củng cố và phát triển.
– Ở Bắc Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
– Đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên mạnh mẽ. Việt Minh lãnh
đạo quần chúng nổi dậy ở Hiệp Hòa (Bắc Giang), Tiên Du (Bắc Ninh), Bần – Yên Nhân (Hưng Yên)…
– Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, thành lập chính quyền cách mạng, tổ chức đột kích Ba Tơ.
– Hàng nghìn đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột, Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thúc đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng khởi nghĩa về sau.
– Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ ngày 15 đến ngày 20 – 4 – 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang; mở trường đào tạo cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị; tích cực phát triển chiến tranh du kích; xây dựng căn cứ địa kháng Nhật, chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Ủy ban quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu miền Bắc và giúp đỡ cả nước về mặt quân sự.
– Ngày 16 – 4 – 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam
và Ủy ban dân tộc giải phóng các cấp.
– Thực hiện quyết định của Đảng, ngày 15 – 5 – 1945, Việt Nam Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Bảy chiến khu của Trung ương và nhiều chiến khu căn cứ của địa phương được xây dựng.
– Trong tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
– Ngày 4 – 6 – 1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, khu giải phóng chính thức được thành lập, gọi là Khu giải phóng Việt Bắc , gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng thuộc các tỉnh lân cận Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào được chọn làm thủ đô khu giải phóng, Ủy ban lâm thời giải phóng được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc trở thành căn cứ địa chính của cách mạng cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam
mới.
Công cuộc chuấn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn dân tộc đã sẵn sàng, đón chờ thời cơ vùng
dậy tổng khởi nghĩa.
- Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
* Nhật đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố
– Sau khi tiêu diệt hoàn toàn phát xít Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Ngày
9 – 8 – 1945, Hồng quân Liên Xô tiêu diệt đội quân Quan Đông của Nhật ở Đông Bắc Trung Quốc.
– Ngày 14 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh và Nội các Nhật họp thông qua quyết định đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Trưa ngày 15 – 8 – 1945, Nhật hoàng chính thức tuyên bố đầu hàng trên đài phát thanh của Nhật.
– Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ Trần Trọng Kim cùng tay sai của Nhật hoang mang. Điều kiện khách quan có lợi cho tổng khởi nghĩa đã đến.
– Ngay từ ngày 13 – 8 – 1945, khi nhận được những thông tin về Nhật đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc . 23 giờ cùng ngày Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1” chính thức phát lệnh tổng khởi nghĩa trong cả nước.
– Từ ngày 14 đến ngày 15 – 8 – 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (Tuyên Quang), quyết định phát động tổng khởi nghĩa trong cả nước, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương; quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
– Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17 – 8 – 1945 Đại hội quốc dân được triệu tập ở Tân Trào. Đại hội tán thành Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua 10 chính sách của Việt Minh, cử ra Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Đại hội quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng năm cánh làm Quốc kì, bài hát Tiến quân ca làm Quốc ca.
* Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
– Đến giữa tháng Tám năm 1945, khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước. Từ ngày 14 – 8, một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt Minh tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa do thông tin liên lạc khó khăn, nhưng đã căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã phát động nhân dân khởi nghĩa ở nhiều xã, huyện thuộc các tỉnh châu thổ sông Hồng, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên – Huế, Khánh Hòa…
– Ngày 14 – 8 – 1945, Quảng Ngãi khởi nghĩa giành thắng lợi ở tỉnh lị.
– Chiều 16 – 8 – 1945, theo lệnh của Ủ y ban khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước.
– Ngày 18 – 8 – 1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam giành được chính
quyền ở tỉnh lị.
* Ở Hà Nội, chiều 17 – 8, quần chúng nội, ngoại thành tổ chức mít tinh ở Nhà hát thành phố, sau đó xếp thành đội ngũ, đi từ Nhà hát Lớn qua các trung tâm, hô vang các khẩu hiệu: “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo bù nhìn”, “Việt Nam độc lập”… Ủy ban khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày 19 – 8 – 1945. Ngày 18 – 8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các tuyến phố chính của Hà Nội.
– Ngày 19 – 8, hàng chục vạn nhân dân nội ngoại thành xuống đường biểu dương lực lượng. Quần chúng cách mạng có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu, lần lượt chiếm các cơ quan đầu não của địch: Phủ Khâm sai Bắc Bộ, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo an binh… Tối 19 – 8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
* Ở Huế, ngày 20 – 8, Ủy ban khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Ủy ban quyết định giành chính quyền vào ngày 23 – 8. Hàng chục vạn nhân dân nội, ngoại thành kéo về thị uy chiếm các công sở, chính quyền về tay nhân dân.
– Chiều 30 – 8, trước cuộc mít tinh lớn có hàng vạn quần chúng tham gia, vua Bảo Đại tuyên bố
thoái vị.
* Tại Sài Gòn, Xứ ủy Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào ngày 25-8.
– Sáng 25 – 8, các đơn vị “Xung phong công đoàn”, “Thanh niên tiền phong”, công nhân, nông dân các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mĩ Tho kéo về thành phố. Quần chúng chiếm sở mật thám, sở cảnh sát, nhà ga, bưu điện, nhà máy điện… và giành chính quyền.
– Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn đã tác động quyết định đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi từ rừng núi, nông thôn đến thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa. Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa phương giành chính quyền muộn nhất vào ngày 28 – 8.
Như vậy, trừ mấy thị xã do lực lượng của Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đ óng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28 – 8 – 1945.
- Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập (2 – 9 – 1945)
– Ngày 25 – 8 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và ủy ban dân tộc giải
phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
– Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong nhũng ngày lịch sử này, Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập, chuẩn bị mọi công việc để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.
– Ngày 2 – 9 – 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản
Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập. “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập”.
– Bản tuyên ngôn nêu rõ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”.
– Cuối bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững nền tự do độc lập vừa giành được: “Toàn thế dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy ”.
– Ngày 2 – 9 – 1945 mãi mãi đi vào lịch sử Việt Nam là một trong những ngày hội lớn nhất, vẻ
vang nhất của dân tộc.
- Ý nghĩa lịch sử, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm của Cách mạng tháng tám
năm 1945
- Ý nghĩa lịch sử
– Cách mạng tháng Tám “mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta”. Nó đã phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, ách thống trị của phát xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục thế kỉ ở nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước do nhân dân lao động làm chủ.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập, tự do; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm quyền, làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh dân tộc; kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
– Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã góp phần chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, “có ảnh hưởng trực tiếp và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào”.
- Nguyên nhân thắng lợi
– Nguyên nhân khách quan:
Chiến thắng Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống bọn phát xít, đặc biệt là chiến thắng phát xít Đức và bọn quân phiệt Nhật Bản của Hồng quân Liên Xô đã cổ vũ tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa.
– Nguyên nhân chủ quan:
+ Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn nhân dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà.
+ Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông Dương và Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đề ra đường lối chiến lược, chủ trương chỉ đạo chiến lược và sách lược đúng đắn dựa trên cơ sở lí luận Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam.
+ Để đi đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng ta có quá trình chuẩn bị trong suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930 – 1931, 1936 – 1939, thoái trào cách mạng 1932 – 1935, đã đúc rút những bài học kinh nghiệm thành công và thất bại, đặc biệt là quá trình xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa trong thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945.
+ Trong những ngày khởi nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không sợ hi sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập tự do. Các cấp bộ Đảng đã chớp thời cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
- Bài học kinh nghiệm
– Bài học về vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nắm bắt được tình hình thế giới và cách mạng trong nước để thay đổi chủ trương chỉ đạo chiến lược cho phù hợp.
– Bài học về việc giải quyết đúng đắn giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
– Bài học về tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, trên cơ sở liên minh công nông, tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh bại chúng.
– Bài học về sự linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, kết hợp với chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiến tới Tổng khởi nghĩa.
– Bài học về việc kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh về tổ chức, tư tưởng chính trị.
Link tải File: