Phần 1: Lịch sử Việt Nam – CĐ7. Việt Nam sau cách mạng tháng 8

Chủ đề 7. Việt Nam sau cách mạng tháng 8, nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:

 

CHỦ ĐỀ 7

VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

(Từ sau ngày 2 – 9 – 1945 đến trước ngày 19 – 12 – 1946)
I. TÌNH HÌNH NƯỚC TA SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách.

* Về đối ngoại:

– Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân Nhật, đã lũ lượt kéo vào nước ta.

+ Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có 20 vạn quân Trung Hoa dân quốc đóng ở Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Chúng kéo theo bọn tay chân từ các tổ chức phản động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng đồng minh hội (Việt Cách).

+ Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân đội Anh trà trộn vào một số quân Pháp nhằm quay trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó bọn phản động ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.

* Về đối nội:

– Chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố; lực lượng vũ trang còn non yếu.

– Nền kinh tế nước ta vốn đã lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945 chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê 9 tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo dài làm cho nửa tổng diện tích ruộng đất không trồng cây được. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi sản xuất. Hàng hóa khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sông nhân dân gặp nhiều khó khăn.

– Về tài chính, ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng. Chính quyền cách mạng lại chưa nắm được Ngân hàng Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Quốc dân đảng tung ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.

– Về văn hoá, di sản văn hóa lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề, hơn 90% dân

số không biết chữ.

 

Nước ta đứng trước tình thế hiểm nghèo, khác nào “Ngàn cân treo sợi tóc ”.

Tuy nhiên, chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản.

– Nhân dân đã giảnh quyền làm chủ, bước đầu được hưởng tự do, nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ.

– Cách mạng nước ta có Đảng lãnh đạo dày dạn kinh nghiệm, có lãnh tụ sáng suốt là Chủ tịch Hồ Chí

Minh.

 

– Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng dân tộc dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đầu tranh vì hòa bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.

  1. BƯỚC ĐẦU CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
  2. Về chính trị – quân sự

– Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chính phủ cách mạng lâm thời công bố lệnh tổng tuyên cử trong cả nước (8 – 9 – 1945).

– Ngày 6 – 1 – 1946, hơn 90% cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu vào Quốc hội 333 đại biểu khắp Bắc

– Trung – Nam, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân.

Xem tiếp:  CĐ11. Miền bắc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội (1954 – 1960)

– Ngày 2 – 3 – 1946, tại phiên họp đầu tiên tại Hà Nội, Quốc hội thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiễn pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua ngày 9 – 11 – 1946.

– Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân, thành lập tháng 5 – 1945, được chấn chỉnh và đổi thành Quân đội quốc gia Việt Nam. Cuối năm 1945, lực lượng dân quân tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt hầu hết ở các thôn xã, đường phó, xí nghiệp trên khắp cả nước.

  1. Về kinh tế – tài chính

Một trong những nhiệm vụ cấp bách sau Cách mạng tháng Tám là giải quyết nạn đói và khó khăn vẻ tài chính.

– Để giải quyết nạn đói, Chính phủ cách mạng lâm thời đề ra nhiều biện pháp cấp thời và lâu dài:

+ Biện pháp cấp thời: Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả nước “Nhường cơm sẻ áo”. Nghe lời Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân dân ta lập “Hũ gạo cứu đói ”, tổ chức “Ngày đồng tâm”, không dùng gạo, ngô, khoai, sắn… nấu rượu.

+ Biện pháp lâu dài: Để giải quyết căn bản nạn đói, tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! ”.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào thi đua tăng gia sản xuất dây lên khắp cả nước. Dưới khẩu hiệu “không một tất đất bỏ hoang”. Giai cấp công nhân, bộ đội, cán bộ, viên chức Nhà nước, trí thức, học sinh, các công thương… tự nguyện tổ chức thành từng đoàn, từng đội về nông thôn, giúp nông dân khai hoang, phục hóa, đắp đê phòng lụt.

Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước.

 

– Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, phong trào “Tuần lễ vàng” do Chính phủ phát động, nhân dân ta hăng hái đóng góp tiền, của, vàng, bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc.

– Ngày 31 – 1 – 1946, Chính phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam và đến ngày 23 – 11 – 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong cả nước thay cho tiền Đông Dương của Pháp trước đây.

  1. Về văn hóa – giáo dục

– Ngày 8 – 9 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập ha bình dân học vụ, là cơ quan chuyên lo việc chống “giặc dốt”, và kêu gọi nhân dân trong cả nước tham gia phong trào xóa nạn mù chữ. Trong vòng một năm, từ ngày 8 – 9 – 1945 đến ngày 8 – 9 – 1946, trên toàn quốc đã tô chức gần 76.000 lớp học, xóa mù chữ cho hơn 2,5 triệu người.

– Trường học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo những công dân và cán

bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc.

– Nội dung và phương pháp giáo dục bước đầu được đổi mới theo tỉnh thần dân tộc – dân chủ.

III. ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM VÀ NỘI PHẢN BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG

  1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở miền Nam
Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ3. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1825 đến 1930

– Ngày 2 – 9 – 1945, trong khi nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh chào mừng “Ngày độc lập”, thực dân Pháp xả súng vào đám đông, làm 47 người chết và làm nhiều người bị thương.

– Đêm 22 rạng sáng 23 – 9 – 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân Pháp cho quân đánh úp trụ sở Ủy ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.

– Quân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng với quân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên chiến đầu chống xâm lược. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp, đánh kho tàng, phá nhà giam.

– Phối hợp với lực lượng vũ trang đánh địch, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn đấu tranh triệt phá nguồn tiếp tế của địch, từ chối hợp tác với chúng, dựng chướng ngại vật và chiến lũy trên đường phố. Các công sở, trường học, nhà máy, hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, tàu xe ngừng chạy, điện nước bị cắt… Quân Pháp trong thành phố bị bao vây và luôn bị tấn công.

– Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động lực lượng cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Hàng vạn thanh niên hăng hái gia nhập quân đội, sung vào các “đoàn quân Nam tiến” sát cánh cùng với nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ chiến đấu. Những cán bộ chiến sĩ hăng hái, có ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu, những vũ khí, trang bị của ta tốt nhất lúc đó đều dành cho bộ đội Nam tiến. Nhân dân Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ còn thường xuyên tổ chức quyên góp tiền, gạo, áo, quần, thuốc men… gửi ủng hộ nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.

 

  1. Đấu tranh với quân Trung Hoa dân quốc và bọn phản cách mạng ở miền Bắc

– Thực hiện sách lược hoà hoãn với quân Trung Hoa dân quốc.

+ Nhượng cho các Đảng Việt Quốc, Việt Cách tay sai của Tưởng Giới Thạch 70 ghế trong Quốc hội

không bầu cử, 4 ghế Bộ trưởng trong Chính phủ liên hiệp chính thức.

+ Nhân nhượng cho Tưởng một số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.

– Đối với tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Quốc dân đảng (Việt Quốc, Việt Cách).

+ Chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng, kiên quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ,

phá hoại của chúng.

+ Những kẻ phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật.

+ Chính phủ còn ban hành một số sắc lệnh nhằm trần áp bọn phản cách mạng.

 

Những biện pháp sách lược nhân nhượng trên đây đã hạn chế các hoạt động chống phá của Trung Hoa

Quốc dân đảng và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đồ chính quyền cách mạng của chúng.

 

  1. Hòa hoãn với Pháp nhằm đẩy 20 vạn quân Tưởng ra khỏi nước ta

– Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp đề ra kế hoạch tiến quân ra

Bắc nhằm thôn tính cả nước ta.

– Để tránh đụng độ với lực lượng kháng chiến của ta, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa Quốc dân đảng, kí hiệp ước Hoa – Pháp (28 – 2 – 1946), theo đó Trung Hoa Quốc dân đảng được Pháp. trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc và được vận chuyển hàng hóa qua cảng Hải Phòng và Hoa Nam không phải đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Quốc dân đảng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ1. Những chuyển biến mới về kinh tế xã hội

– Hiệp ước Hoa – Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con đường: hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ lên miền Bắc; hoặc hòa hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối phó cùng lúc với nhiều kẻ thù.

– Ngày 3 – 3 – 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh chủ trì đã chọn giải pháp

“hòa để tiến”.

– Chiều 6 – 3 – 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng

hòa kí với G.Xanh-tơ-ni – đại diện Chính phủ Pháp – bản Hiệp định sơ bộ.

– Nội dung Hiệp ước:

 

+ Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng và là thành viên Liên bang Đông Dương, năm trong khối Liên hiệp Pháp.

+ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận cho 15000 quân Pháp vào miền Bắc thay quân Trung Hoa Quốc dân đảng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật, số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.

+ Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở miền Nam và giữ nguyên quân đội của mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi để đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn về các vấn để ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương, quyền lợi kinh tế và văn hóa của người Pháp ở Việt Nam.

Kí Hiệp định Sơ bộ 6 – 3 – 1946, tạm thời hòa hoãn với Pháp, ta tránh được cuộc chiến đấu bất lợi vì phải chồng lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân Tưởng cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, giành thêm thời gian hòa bình củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chồng thực dân Pháp.

Do ta đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai Chính phủ Việt Nam và Pháp đã được tổ chức tại Phông-ten-nơ-blô từ ngày 6 – 7 – 1946. Cuộc đàm phán thất bại. Trong lúc đó tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ nỗ ra chiến tranh.

– Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước Pháp với tư cách thượng khách, đã kí với Mu-tê – đại diện của Chính phủ Pháp tạm bản Tạm ước ngày 14 – 9 – 1946, nhân nhượng thêm cho Pháp một số quyền lợi kinh tế – văn hóa ở Việt Nam. Bản Tạm ước đã tạo điều kiện cho ta có thêm thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp lâu dài.

Link tải File:

CHỦ ĐỀ 7. VIỆT NAM SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM (Từ sau ngày 2 - 9 - 1945 đến trước ngày 19 - 12 - 1946)_hoctai.vn.zip