Phần 1: Lịch sử Việt Nam – CĐ2. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam

Chúng ta tiếp tục với Chủ đề 2. Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam, nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:

 

CHỦ ĐỀ 2

PHONG TRÀO DÂN TỘC DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM

TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1925

  1. HOẠT ĐỘNG CỦA PHAN BỘI CHÂU, PHAN CHÂU TRINH VÀ MỘT SỐ NGƯỜI VIỆT NAM SỐNG Ở TRUNG QUỐC, PHÁP
  2. Hoạt động của Phan Bội Châu và một số thanh niên Việt Nam trên đất Trung Quốc

 

Ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của nước Nga Xô viết đến với Phan Bội Châu như một ánh sáng mới. Cảm tình với nước Nga Xô viết, cuối năm 1920, Phan Bội Châu dịch ra chữ Hán cuốn Điều tra chân tướng Nga-la-tư của một tác giả Nhật Bản, viết truyện Phạm Hồng Thái, ngợi ca tinh thần yêu nước, sự hi sinh anh dũng của người thanh niên họ Phạm.

– Tháng 6 – 1925 trong khi chưa thể thay đổi được tổ chức, thay đổi phương lược đấu tranh thích hợp với biến chuyển mới của đất nước và thời đại thì Phan Bội châu bị thực dân Pháp bắt tại Hàng Châu (Trung Quốc) đưa về nước, bị kết án tù rồi đưa về an trí ở Huế. Từ đó trở đi, Phan Bội Châu không thể tiến theo nhịp đấu tranh mới của dân tộc.

– Vào giữa những năm 20 đã có nhiều thanh niên yêu nước sang Quảng Châu (Trung Quốc) tìm đường cứu nước, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Nguyễn Công Viễn vv… Năm 1923, họ lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Để phát huy ảnh hưởng, gây tiếng vang thức tỉnh đồng bào trong nước, Tâm tâm xã cử Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát toàn quyền Méc-lanh (Merlin) ở Sa Diện (Quảng Châu) ngày 19-6-

  1. Sự việc không thành, Phạm Hồng Thái đã  anh dũng  hi sinh trên dòng Châu Giang. Tiếng  bom Phạm Hồng Thái đã nhóm lại ngọn lửa chiến đấu, khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta, nhất là thanh niên. Sự kiện lịch sử đó tuy nhỏ nhưng nó “như chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân”.
  2. Hoạt động của Phan Châu Trinh và một số người Việt Nam trên đất Pháp

 

– Vào đầu năm 1922, Phan Châu Trinh đến Mác-xây. Nhân dịp vua Khải Định sang dự cuộc triển lãm thuộc địa khuếch trương cái gọi là “công lao khai hóa” của Pháp, Phan Châu Trinh viết Thất điều thư vạch ra 7 tội đáng chém của Khải Định. Phan Châu Trinh còn tổ chức diễn thuyết lên án chế độ quân chủ và quan trường ở Việt Nam, tiếp tục hô hào “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân khí”…

– Tháng 6 -1925, Phan Châu Trinh về nước. Mặc dù sức khỏe đã yếu, ông vẫn tiếp tục hoạt động, đả phá chế độ quân chủ, đề cao dân quyền. Nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên rất mến mộ và hưởng ứng hoạt động của Phan Châu Trinh.

– Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều Việt kiều tại Pháp đã tham gia hoạt động yêu nước, chuyển tài liệu, sách báo tiến bộ về nước. Một số thủy thủ Việt Nam đã hoạt động trong Hội liên hiệp thuộc địa. Nhiều trí thức và lao động Việt Nam ở Pháp đã đoàn kết tập hợp trong các tổ chức yêu nước. Năm 1925, Hội những người lao động trí óc ở Đông Dương ra đời.

Xem tiếp:  CĐ10. Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (1953 - 1954)

– Một số thanh niên, sinh viên yêu nước xuất thân trong các gia đình địa chủ, tư sản lập ra Đảng Việt Nam độc lập, xuất bản báo Tái sinh. Đảng có một số chi bộ ở Pa-ri và các tỉnh lân cận, còn ở trong nước thì không có chỗ dựa.

 

  1. HOẠT ĐỘNG CỦA TƯ SẢN, TIỂU TƯ SẢN VÀ CÔNG NHÂN VIỆT NAM

 

  1. Hoạt động của tư sản và tiểu tư sản

 

  1. Phong trào của giai cấp tư sản

 

Ngay từ khi mới ra đời, tư sản Việt Nam đã tổ chức cuộc tẩy chay tư sản Hoa Kiều (1919) ở một số tỉnh và thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định… Ở Hà Nội có cuộc vận động người Việt Nam chỉ mua hàng của người Việt Nam.

– Năm 1923, xảy ra vụ đấu tranh chống tư bản Pháp độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa

 

gạo Nam Kì.

 

– Ngoài ra, giai cấp tư sản đã dùng báo chí để bênh vực quyền lợi cho mình trong phong trào chống độc quyền.

– Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long…) đã tập hợp nhau lại thành một tổ chức có tên là Đảng Lập hiến (1923). Cơ quan ngôn luận của Đảng Lập hiến là tờ Diễn đàn Đông Dương Tiếng dội An Nam. Khi được thực dân Pháp nhượng bộ cho ít quyền lợi (như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam Kì), họ đã thỏa hiệp với chúng.

  1. Phong trào của tiểu tư sản

 

– Sau chiến tranh, các tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên trường Cao đẳng Hà Nội, học sinh và giáo viên các trường, viên chức, nhà văn, nhà báo v.v…) sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ, hăng hái chống lại cường quyền áp bức. Họ được tập hợp trong những tổ chức chính trị như Việt Nam nghĩa đoàn, hội Phục Việt, đảng Thanh niên với nhiều hoạt động phong phú, sôi nổi (mít tinh, biểu tình, bãi khóa v.v.), nhiều tờ báo tiến bộ lần lượt ra đời. Báo tiếng Pháp có các tờ Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; báo tiếng Việt có tờ Hữu thanh, Tiếng dân, Đông Pháp thời báo, Thực nghiệp dân báo… Họ lập ra những nhà xuất bản tiến bộ như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế).

– Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai hồi đó có một sự kiện nổi bật là cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925), các cuộc truy điệu, để tang Phan Châu Trinh (1926). Riêng ở Sài Gòn, đám tang Phan Châu Trinh đã thu hút khoảng 14 vạn người tham dự.

  1. Các cuộc đấu tranh của công nhân

 

– Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh của công nhân tuy còn lẻ tẻ và tự phát nhưng đã nói lên ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu.

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ1 - Bối cảnh quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai

– Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh của công nhân tuy còn lẻ tẻ và tự phát nhưng đã nói lên ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. Ngay từ năm 1920, công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn đã thành lập công hội (bí mật) do Tôn Đức Thắng đứng đầu.

 

– Các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Pháp trên các tàu Pháp ghé vào cảng Hải Phòng (1919) và Sài Gòn (1920) cũng như các cuộc đấu tranh của công nhân và thủy thủ Trung Quốc tại các cảng lớn như Hương Cảng, Áo Môn, Thượng Hải (1921) đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái đấu tranh.

– Năm 1922, công nhân và viên chức các sở công thương của tư nhân ở Bắc Kì đòi chủ tư bản người Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương. Cùng năm đó còn có cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương v.v…

– Tháng 8 – 1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn không chịu sửa chữa chiến hạm Mi-sơ-lê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân và thủy thủ Trung Quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20% và phải để cho những công nhân mất việc làm được trở lại làm việc. Cuộc bãi công Ba Son thắng lợi đánh dấu bước tiến mới của phong trào công nhân Việt Nam.

III. HOẠT ĐỘNG YÊU NƯỚC CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC

 

– Sau hơn 8 năm bôn ba hầu khắp các châu lục trên thế giới, Nguyễn Tất Thành trở lại Pháp, gia nhập Đảng Xã hội Pháp, vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái.

– Ngày 18 – 6 – 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Véc-xai Bản yêu sách của nhân dân An Nam. Bản yêu sách đòi chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của nhân dân An Nam.

Bản yêu sách đó đã được Hội nghị Véc-xai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy những lời tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc và quyền tự do dân chủ và quyền tự quyết của các dân tộc mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống Mĩ Uyn-xơn chỉ là trò lừa bịp để lừa các dân tộc. Vì vậy “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ6. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945

– Giữa năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc thuộc địa của V.I.Lênin đăng trên báo Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc khẳng định: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc là phải đi theo con đường cách mạng vô sản.

– Ngày 25 – 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng Xã hội Pháp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại biểu bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên cộng sản Pháp, đồng thời là một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.

Từ đây, Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và tiếp tục học tập, nghiên cứu lí luận về con đường

 

cách mạng thuộc địa để truyền bá vào Việt Nam.

 

– Năm 1921, cùng với một số người yêu nước của An-giê-ri, Ma-rốc, Tuy-ni-di… Nguyễn Ái Quốc lập ra Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa ở Pa-ri để đoàn kết các lực lượng cách mạng chống chủ nghĩa thực dân. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Người cùng khổ do Người làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người

 

còn viết nhiều bài cho các báo Nhân đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân của Tổng Liên đoàn lao động Pháp)…và đặc biệt là cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp. Các sách báo nói trên được bí mật chuyển về Việt Nam đã góp phần thúc đẩy phong trào dân tộc trong nước phát triển mạnh mẽ hơn.

– Tháng 6 – 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự Hội nghị Quốc tế nông dân (tháng 10 – 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội. Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập, viết bài cho báo Sự thật của Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa.

– Ngày 11 – 11 – 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) để trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và giai cấp ở Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã tạo sẵn điều kiện để “Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.

– Tháng 6 – 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên để trang bị chủ nghĩa

 

Mác – Lênin cho họ.

Link tải File:

CHỦ ĐỀ 2. PHONG TRÀO DÂN TỘC DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM_hoctai.vn.zip