CĐ9. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống pháp (1950 – 1953)
Chủ đề 9: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống pháp (1950 – 1953), nằm trong chuyên đề Câu hỏi và bài tập trắc nghiệm Lịch sử lớp 12 theo chủ đề thuộc Phần 1: Lịch sử Việt Nam. Chi tiết vui lòng tham khảo link bên dưới:
CHỦ ĐỀ 9:
BƯỚC PHÁT TRIỂN MỚI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC CHỐNG PHÁP (1950 – 1953)
- CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI THU – ĐÔNG 1950
- Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến có thêm nhiều thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt với những
thách thức mới:
– Ngày 1 – 10 – 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời.
– Ngày 18 – 1 – 1950, Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, ngày 30 – 1 – 1950 Chính phủ Liên Xô và trong vòng một tháng sau, các nước trong phe xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
– Ngày 13 – 5 – 1949, có sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơ-ve. Với kế hoạch Rơ-ve, Mĩ từng bước can thiệp sau và “dính líu trực tiếp ” vào cuộc chiến tranh Đông Dương.
– Ngày 7 – 2 – 1950, Mĩ công nhận Chính phủ bù nhìn Bảo Đại; ngày 8 – 5 – 1250, Mĩ đồng ý viện trợ kinh
tế và quân sự cho Pháp, nhằm từng bước nắm quyền điều khiển chiến tranh ở Đông Dương.
– Thực hiện kế hoạch Rơ-ve, từ tháng 6 – 1949 Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ ra Bắc, tăng cường hệ thống phòng ngự trên đường số 4, thiết lập “Hành lang Đông – Tây”. Trên cơ sở đó Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tấn công Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
- Cuộc tiến công địch ở biên giới phía Bắc của quân ta a. Mục đích mở chiến dịch của ta
Để khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng chiến phát triển lên bước mới, tháng 6 – 1950, Đảng và Chính
phủ ta quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm:
– Tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch.
– Mở đường liên lạc với Trung Quốc và thế giới dân chủ.
– Mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đây cuộc kháng chiến tiến lên.
- Diễn biến của chiến dịch
– Ngày 16 – 9 – 1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng trận đánh vào vị trí Đông Khê và đã giành thắng lợi. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo đường số 4 và từ Thất Khê tiến lên Đông Khê để đón cánh quân từ Cao Bằng rút về.
– Từ ngày 1 – 10 đến 8 – 10 – 1950, quân ta liên tục mở những cuộc bao vây, đánh chặn địch:
+ Ở phía Thất Khê, Đơ la Bôm dẫn hơn 600 quân lê dương và lính dù ứng cứu cho Lơ Pa-giơ và Sác-tông, bị quân ta chặn đánh dữ dội phải tháo chạy về Thất Khê. Ngày 8 – 10 – 1950, địch chạy khỏi Thất Khê và Na Sầm. Ngày 13 – 10 – 1950, địch rút khỏi Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên cũng bị quân ta chặn đánh.
+ Quân Pháp trở nên hoảng loạn. Ngày 17 – 10, chúng rút khỏi Đồng Đăng, ngày 18 – 10, rút khỏi Lạng
Sơn. Các vị trí còn lại trên đường số 4 như Lộc Bình, Đình Lập, An Châu cũng rút chạy ngày 22 – 10 –
1950.
- Kết quả
– Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8000 địch, thu trên 3000 tấn vũ khí và
phương tiện chiến tranh.
– Giải phóng tuyến biên giới Việt – Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập đài 750 km với 35 vạn dân; chọc thủng “hành lang Đông – Tây ” của Pháp. Kế hoạch Rơ-ve bị phá sản.
- Ý nghĩa
Với chiến thắng Biên giới, con đường nối nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa được khai thông; quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động trên chiến trường chính (Bắc Đông Dương), mở ra bước phát triển mới của cuộc kháng chiến.
- THỰC DÂN PHÁP ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH XÂM LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG
- Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương
– Từ tháng 5 – 1949, Mĩ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương.
– Ngày 23 – 12 – 1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông Dương.
– Tháng 9 – 1951, Mĩ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mĩ nhằm trực tiếp ràng buộc chính
phủ Bảo Đại và Mĩ.
- Kế hoạch Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi
– Ngày 6 – 12 – 1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao ủy Pháp ở Đông Dương. Dựa vào viện trợ Mĩ, lại có quyền lực tập trung trong tay, Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi đề ra kế hoạch mới nhằm kết thúc nhanh chiến tranh.
– Kế hoạch Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương lên quy mô
lớn, làm cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta, nhất là vùng ở sau lưng địch trở nên khó khăn phức tạp.
III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG (2 – 1951)
- Hoàn cảnh
Từ ngày 11 đến 19 – 2 – 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Đông Dương họp ở Vinh Quang – Chiêm Hóa (Tuyên Quang). Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 76 vạn đảng viên.
- Nội dung Đại hội: Thông qua hai bản báo cáo quan trọng:
– Báo cáo chính trị do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh oanh liệt từ ngày ra đời, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
– Báo cáo bàn về cách mạng Việt Nam do Tổng Bí thư Trường Chỉnh trình bày.
– Đại hội quyết định thành lập Đảng Lao động Việt Nam và đưa Đảng ra hoạt động công khai, đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc kháng chiến của Việt Nam.
– Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới; Quyết định xuất bản báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng.
– Đại hội bầu ra Ban chấp hành Trung ương, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chỉnh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá trình lãnh đạo và
trưởng thành của Đảng ta.
- HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN PHÁT TRIỀN MỌI MẶT
- Về chính trị
– Từ ngày 3 đến ngày 7 – 3 – 1951, Đại hội toàn quốc thống nhất Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành
một mặt trận duy nhất, lấy tên là Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt).
– Ngày 11 – 3 – 1951, thành lập Liên minh nhân dân Việt – Miên – Lào nhằm tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa nhân dân ba nước trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ.
– Phong trào thi đua yêu nước ngày càng ăn sâu, lan rộng trong các ngành, các giới làm xuất hiện nhiều đơn vị, cá nhân ưu tú. Ngày 1 – 5 – 1952, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất đã tổng kết, biểu dương thành tích của phong trào thi đua ái quốc và bầu chọn 7 anh hùng. Đó là: Cù Chính Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần Đại NgĩIĩa, Hoàng Hanh.
- Về kinh tế
Năm 1952, Chính phủ đề ra cuộc vận động sản xuất và thực hành tiết kiệm. Cuộc vận động đã lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia.
– Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp về cơ bản đáp ứng được nhu cầu về công cụ sản xuất và những mặt hàng thiết yếu của đời sống.
– Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ đề ra những chính sách nhằm chấn chỉnh chế độ thuế khóa, xây
dựng nên tài chính, ngân hàng, thương nghiệp.
– Để bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân, đầu năm 1953 Đảng và Chính phủ quyết định phát động quân chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất.
– Từ tháng 4 – 1953 đến tháng 7 – 1954, ta thực hiện 5 đợt giảm tô và một đợt cải cách ruộng đất ở 53 xã
thuộc vùng tự do Thái Nguyên, Thanh Hóa.
– Đến cuối năm 1953, từ Liên Khu IV trở ra, cách mạng đã tạm cấp cho nông dân 184.000 hécta ruộng đât.
- Về văn hóa, giáo dục, y tế
– Ta tiếp tục cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950) thực hiện theo ba phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất, gắn nhà trường với đời sống xã hội.
– Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản xuất, hưởng ứng lời dạy của Hồ
Chí Minh “Kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hoá kháng chiến ”.
– Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê tín dị đoan ngày càng có tính
chất quần chúng rộng lớn.
– Công tác chăm lo sức khỏe cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá, phòng y tế, trạm cứu thương được xây.dựng khắp nơi
- NHỮNG CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG
- Chiến dịch Trần Hưng Đạo (chiến dịch Trung du)
Trung du là tuyến phòng thủ chủ yếu của Pháp để bảo vệ vùng đồng bằng. Ta quyết định mở chiến dịch đánh vào Vĩnh Yên và Phúc Yên từ ngày 25 – 12 – 1950 đến ngày 17 – 1 – 1951 nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phá vỡ kế hoạch củng cố vùng chiếm đóng của chúng.
- Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Chiến dịch đường số 18)
Chiến dịch nhằm tiêu diệt sinh lực địch, phát triển chiến tranh du kích. Từ ngày 29 – 3 -1951 đến ngày 5 –
4 – 1951, quân ta tiến công địch ở phòng tuyến đường số 18 thuộc khu vực Phả Lại đến Uông Bí, Mạo Khê.
- Chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà – Nam – Ninh)
Chiến dịch nhằm tiêu hao sinh lực địch, phá tan ngụy quân. Từ ngày 28 – 5 – 1951 đến ngày 20 – 6 – 1951, quân ta tiến công địch ở vùng đồng bằng thuộc các tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình.
Trên đây là những chiến dịch quy mô lẻ đầu tiên của bộ đội chủ lực ta đánh vào tuyến kiên cố của Pháp ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Nhưng do địa bàn chiến dịch không thuận lợi cho ta, mà có lợi cho địch trong việc phát huy ưu thế về binh khí và kĩ thuật cơ động nên kết quả chiến đấu bị hạn chế.
Với phương châm chiến lược “Đánh chắc thắng” và phương hướng chiến lược “Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu ”, ta chủ trương mở những chiến dịch tiếp theo ở rừng núi.
- Chiến dịch Hòa Bình đông – xuân năm 1951 – 1952
– Ngày 9 – 11 – 1951, Đờ Lát đơ Tát-xi-nhi sử dụng một lực lượng quân cơ động lớn tiến đánh Chợ Bến, đến ngày 14 – 11- 1951 tiến đánh Hòa Bình.
– Từ giữa tháng 11 – 1951 đến cuối tháng 2 – 1952, ta mở chiến dịch phản công địch ở Hòa Bình.
Chiến dịch Hòa Bình kết thúc sau hơn hai tháng (từ ngày 10 – 12 – 1951 đến ngày 25 – 2 – 1952).
– Kết quả:
+ Ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 22000 tên địch.
+ Ta giải phóng hoàn toàn khu vực Hòa Bình.
– Ý nghĩa: Thắng lợi của chiến dịch Hòa Bình là thắng lợi của nghệ thuật chỉ đạo chiến đấu phối hợp giữa chiến trường chính với chiến trường cả nước.
- Chiến dịch Tây Bắc thu – đông 1952
– Từ ngày 14 – 10 – 1952 đến ngày 10 – 12 – 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái.
– Kết thúc chiến dịch, ta đã loại khỏi vòng chiến đầu hơn 13000 tên địch, giải phóng 28500 km2 với hơn 25 vạn dân, gồm toàn tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện ở Lai Châu, hai huyện ở Yên Bái, phá một phần âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của địch.
- Chiến dịch Thượng Lào xuân – hè 1953
– Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng chiến Lào thỏa thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
– Chiến dịch diễn ra từ ngày 8 – 4 – 1953 đến ngày 18 – 5 – 1953. Trong hơn 1 tháng chiến đấu, liên quân Việt – Lào đã loại khỏi vòng chiến đấu 2800 tên địch; giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phân tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong-xa-lì với trên 30 vạn dân.
Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ năm 1951 đến năm 1953, ở các chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ, quân dân ta đã tận dụng các hình thức chiến tranh du kích, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá hủy nhiều tổ chức tê ngụy, nhiều cơ sở kinh tế của chúng.
Link tải File: