Lịch sử thế giới – CĐ3. Các nước Á, Phi, Mỹ la-tinh (1945 – 2000)

Hoctai.vn vừa giới thiệu xong phần 1: Lịch sử Việt Nam, ở phần tiếp theo chúng ta cùng nhau tìm hiểu về Phần 2: Lịch sử thế giới, và ở bài này sẽ là: Chủ đề 3 Các nước á, phi, mỹ la-tinh (1945 – 2000)

 

CHỦ ĐỀ 3

CÁC NƯỚC Á, PHI, MỸ LA-TINH (1945 – 2000)

I. TRUNG QUỐC

  1. Sự thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và thành tựu 10 năm đầu xây dựng chế độ mới (1949 – 1959)
  2. Cuộc nội chiến

– Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống quân phiệt Nhật, ở Trung Quốc đã diễn ra

cuộc nội chiến giữa Đảng Quốc dân và Đảng Cộng sản. Cuộc nội chiến kéo dài hơn 3 năm (1946 – 1949).

– Ngày 20 – 7 – 1946, Tưởng Giới Thạch chính thức phát động cuộc nội chiến chống Đảng Cộng sản.

– Từ tháng 7 – 1946 đến tháng 6 – 1947, Quân giải phóng Trung Quốc thực hiện chiến lược phòng ngự tích cực. Sau giai đoạn này, Quân giải phóng chuyển sang phản công, tiến quân vào các vùng do Đảng Quốc dân kiểm soát. Bằng ba chiến dịch lớn (Liêu – Thẩm, Hoài – Hải, Bình – Tân), từ cuối năm

1948 đến đầu năm 1949, Quân giải phóng đã loại khỏi vòng chiến đấu 1.540.000 tên địch, lực lượng chủ lực của địch bị tổn thất nghiêm trọng.

– Cuối năm 1949, cuộc nội chiến kết thúc, toàn bộ lục địa Trung Quốc được giải phóng. Tập đoàn

Tưởng Giới Thạch thất bại, phải tháo chạy ra Đài Loan.

Ngày 1 – 10 – 1949, nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa chính thức thành lập, đứng đầu là Chủ tịch Mao Trạch Đông.

  1. Ý nghĩa

– Thắng lợi này đã chấm dứt hơn 100 năm nô dịch của đế quốc, xoá bỏ tàn dư phong kiến.

– Đưa nước Trung Hoa bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

– Tạo điều kiện nối liền chủ nghĩa xã hội từ Âu sang Á và ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào giải

phóng dân tộc trên thế giới.

  1. Công cuộc khôi phục kinh tế và cảỉ cách

– Từ năm 1950, nhân dân Trung Quốc bước vào giai đoạn khôi phục kinh tế, tiến hành những cải cách quan trọng: cải cách ruộng đất và hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá, giáo dục…

– Từ năm 1953, Trung Quốc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên (1953 – 1957). Nhờ nỗ lực lao động của toàn dân và sự giúp đỡ của Liên Xô, kế hoạch 5 năm đã thu được những thành tựu to lớn. Bộ mặt đất nước Trung Quốc có nhiều thay đổi rõ rệt.

  1. Chính sách đối ngoại

– Trong những năm 1949 – 1959, Trung Quốc thi hành chính sách ngoại giao tích cực nhằm củng cố hoà bình và thúc đẩy sự phát triển của phong trào cách mạng thế giới.

 

+ Ngày 14 – 2 – 1950, Trung Quốc kí với Liên Xô “Hiệp ước hữu nghị, đồng minh và tương trợ Trung – Xô” và nhiều hiệp ước kinh tế, tài chính khác; phái quân chí nguyện sang giúp nhân dân Triều Tiên chống Mĩ (1950 – 1953); tham gia Hội nghị các nước Á – Phi tại Băng-đung (1955); giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, ủng hộ các nước Á, Phi và Mĩ La-tinh trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.

+ Ngày 18 – 1 – 1950, Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

  1. Trung Quốc trong những năm không ổn định (1959 – 1978)

– Về đối nội, từ năm 1959, đất nước Trung Hoa lâm vào tình trạng không ổn định kéo dài tới 20

năm (1959 – 1978).

– Về kinh tế, chính trị và xã hội: Khởi đầu là việc đề ra và thực hiện đường lối “Ba ngọn cờ hồng” (“Đường lối chung”, “Đại nhảy vọt”, “Công xã nhân dân”) với mong muốn nhanh chóng xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

+ Hậu quả là năm 1959, trong cả nước nạn đói diễn ra trầm trọng, đời sống nhân dân khó khăn, sản xuất ngừng trệ, đất nước không ổn định.

+ Từ năm 1968 đến năm 1978, ở Trung Quốc, Đảng và Chính phủ không đề ra kế hoạch kinh tế – xã hội dài hạn mà chỉ đưa ra những kế hoạch hằng năm. Đồng thời, trong nội bộ ban lãnh đạo vẫn tiếp tục diễn ra những cuộc tranh giành quyền lực gay gắt.

– Về đối ngoại, Trung Quốc ủng hộ cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược của nhân dân Việt Nam cũng như cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước Á, Phi và Mĩ La-tinh. Cũng trong thời kì này, đã xảy ra những cuộc xung đột ở biên giới giữa Trung Quốc với Ấn Độ (1962), giữa Trung Quốc với Liên Xô (1969). Tháng 2 – 1972, Tổng thống Mĩ Ních-Xơn sang thăm Trung Quốc, mở đầu quan hệ mới theo chiều hướng hoà dịu giữa hai nước.

  1. Công cuộc cải cách – mở cửa (1978 – 2000)

– Tháng 12 – 1978, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vạch ra đường lối mới, mở đầu cho công cuộc cải cách kinh tế – xã hội. Đường lối này được nâng lên thành đường lối chung qua Đại hội XII (tháng 9 – 1982), đặc biệt là Đại hội XIII (tháng 10 – 1987) của Đảng. Đại hội khẳng định lấy phát triển kinh tế làm trung tâm; kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản (con đường xã hội chủ nghĩa, chuyên chính dân chủ nhân dân, sự  lãnh đạo của Đảng Cộng sản  Trung Quốc, chủ nghĩa  Mác – Lênin, tư tưởng  Mao Trạch Đông).

– Thực hiện đường lối cải cách, đất nước Trung Quốc có những biến đổi căn bản.

+ Khoa học – kĩ thuật, văn hoá và giáo dục Trung Quốc đạt nhiều thành tựu quan trọng.

+ Năm 1964, Trung Quốc thử thành công bom nguyên tử.

+ Từ tháng 11 – 1999 đến tháng 3 – 2003, Trung Quốc đã phóng với chế độ tự động 4 con tàu “Thần Châu”. Vào ngày 15 – 10 – 2003, tàu “Thần Châu 5” cùng nhà du hành Dương Lợi Vĩ đã bay vào không gian vũ trụ.

 

– Trong lĩnh vực đối ngoại,  Trung Quốc  có nhiều  thay đổi. Từ những năm  80 của thế kỉ  XX, Trung Quốc đã bình thường hoá quan hệ với Liên Xô, Việt Nam, Mông Cổ, khôi phục quan hệ ngoại giao với In-đô-nê-xi-a, thiết lập quan hệ ngoại giao với nhiều nước, mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước trên thể giới, có nhiều đóng góp trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế. Trung Quốc đã thu hồi chủ quyền đối với Hồng Công (tháng 7 – 1997) và Ma Cao (tháng 12 – 1999). Những vùng đất này trở thành khu hành chính đặc biệt của Trung Quốc, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

  1. Lãnh thổ Đài Loan

– Năm 1949, chính quyền của Đảng Quốc dân bị thất bại, phải chạy ra Đài Loan. Trong những năm 50, Đài Loan tiến hành khôi phục kinh tế, đồng thời thực hiện hai “kế hoạch 5 năm xây dựng kinh tế”, nhờ đó đã đạt được một số thành tựu bước đầu.

– Bước sang những năm 60, chính quyền Đài Loan tiến hành nhiều cải cách kinh tế, chính trị, xã hội, kêu gọi đầu tư, mở những khu chế xuất lớn, đưa ra chiến lược kinh tế “hướng về xuất khẩu”. Nền kinh tế phát triển năng động.

– Trong vòng ba thập niên xây dựng và phát triển, Đài Loan được coi là một trong những “con

rồng” ở Đông Á.

  1. BÁN ĐẢO TRIỀU TIÊN
  2. Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên

– Sau chiến tranh, nhân dân miền Bắc đã tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi hoàn thành trước thời hạn kế hoạch ba năm khôi phục kinh tế (1954 – 1956), Cộng hoà dân chủ nhân dân (CHDCND) Triều Tiên đã thực hiện nhiều kế hoạch dài hạn và thu được nhiều thành tựu lớn: hoàn thành điện khí hoá trong cả nước, nền công nghiệp nặng (sản xuất ô tô, máy kéo, toa xe, đầu máy xe lửa và nhiều thiết bị khác) đáp ứng sự phát triển kinh tế – xã hội trong nước. Cơ sở hạ tầng phát triển, thủ đô Bình Nhưỡng có hệ thống tàu điện ngầm, giao thông thuận tiện và nhiều toà nhà chọc trời cao hàng chục tầng…

– Nền  kinh tế của  CHDCND Triều  Tiên mang tính kế hoạch  hoá tập  trung cao độ. Đất  nông nghiệp được tập thể hoá, các ngành công nghiệp do Nhà nước quản lí. Công nghiệp nặng được chú trọng, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng.

– Văn hoá giáo dục có bước tiến đáng kể. Năm 1999, Triều Tiên hoàn thành xoá nạn mù chữ.

Chính phủ thi hành chương trình giáo dục 10 năm bắt buộc và miễn phí.

  1. Đại Hàn dân quốc (Hàn Quốc)

– Tình hình kinh tế – xã hội Hàn Quốc những năm sau chiến tranh vô cùng khó khăn, chính trị

không ổn định.

– Từ thập niên 60 trở đi, kinh tế Hàn Quốc từng bước có những thay đổi lớn: từ nước nghèo nàn, lạc hậu, sau ba thập niên phát triển, Hàn Quốc trở thành một trong bốn “con rồng kinh tế” ở châu Á với tỉ lệ tăng trưởng hằng năm đạt từ 8% trở lên.

 

– Từ năm 1993, Hàn Quốc bắt đầu thực hiện kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế nhằm mục tiêu sớm

tham gia vào câu lạc bộ các nước công nghiệp phát triển.

– Năm 1997, cùng với một số nước Đông Nam Á, Hàn Quốc phải trải qua một cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ rất nặng nề. Tuy vậy, nền kinh tế của Hàn Quốc được xếp vào thứ 11 trên thế giới, đã tiếp cận với các quốc gia phát triển.

– Giáo dục là lĩnh vực được đánh giá cao trong nền văn hoá Hàn Quốc, được coi là chìa khoá của sự thành công. Hàn Quốc thực hiện chế độ học tập bắt buộc trong 6 năm, từ 6 đến 12 tuổi.

  1. Quan hệ giữa hai miền Nam – Bắc bán đảo Triều Tiên
Xem tiếp:  CĐ12. Chiến đấu chống chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền nam...

– Sau chiến tranh Triều Tiên, vào những thập kỉ 50 và 60, Nam – Bắc bán đảo Triều Tiên ở trong tình trạng đối đầu.

– Từ những năm 70 trở đi, quan hệ giữa hai miền có sự thay đổi, chuyển sang đối ngoại. Năm

1990, vấn đề đối ngoại Nam – Bắc có bước đột phá mới: sau nhiều cuộc gặp gỡ, các nhà lãnh đạo cấp cao của hai bên đã đi đến nhất trí: “xoá bỏ tình trạng đối lập về chính trị và quân sự giữa hai miền Nam – Bắc, tiến hành giao lưu và hợp tác nhiều mặt”.

– Ngày 13 – 6 – 2000, hai nhà lãnh đạo cao nhất là Tổng thống Kim Tê Chung (Hàn Quốc) và Chủ tịch Kim Jong Il (CHDCND Triều Tiên) đã gặp gỡ ở Bình Nhưỡng và kí hiệp định hoà hợp giữa hai quốc gia, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa hai miền. Tuy nhiên, quá trình hoà họp và thống nhất bán đảo Triều Tiên còn lâu dài, khó khăn và phức tạp.

III. CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

  1. Khái quát về quá trình giành độc lập.

– Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, hầu hết các nước trong khu vực (trừ Thái Lan) đều là thuộc địa của đế quốc Âu – Mĩ.

– Khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Nhật Bản xâm chiếm cả vùng Đông Nam Á và thiết lập trật tự phát xít. Từ cuộc đấu tranh chống thực dân Âu – Mĩ, nhân dân Đông Nam Á chuyển sang đấu tranh chống quân phiệt Nhật, giải phóng đất nước. Ngay sau khi Nhật đầu hàng lực lượng Đồng minh, một số quốc gia tuyên bố độc lập.

– Nhưng ngay sau đó, các nước thực dân Âu – Mĩ (Pháp, Hà Lan, Anh…) quay trở lại xâm lược Đông Nam Á. Nhân dân Đông Nam Á lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống xâm lược. Trải qua cuộc kháng chiến kiên cường và gian khổ, vào giữa những năm 50, nhân dân In-đô-nê-xi-a, Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia đã lần lượt đánh đuổi bọn thực dân ra khỏi đất nước. Cũng vào thời gian đó, các nước đế quốc Âu – Mĩ công nhận độc lập của Phi-líp-pin, Miến Điện, Mã Lai, Xin-ga-po.

– Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954), nhân dân Việt Nam và Lào, tiếp đó là Cam-pu-chia phải trải qua một cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân mới của Mĩ, đến năm 1975 mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Riêng Bru-nây, tới tháng 1 – 1984 tuyên bố là quốc gia độc lập nằm trong khối Liên hiệp Anh. Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 8 – 1999, tách khỏi In-đô-nê-xi-a, ngày 20 – 5 –

2002, Đông Ti-mo trở thành một quốc gia độc lập.

 

  1. In-đô-nê-xi-a

– Ngày 17 – 8 – 1945, sau khi quân phiệt Nhật đầu hàng trước khí thế cách mạng của quần chúng, bác sĩ Xu-các-nô đã đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố thành lập nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a.

– Hưởng ứng Tuyên ngôn độc lập, trong cả nước, trước hết là nhân dân ở các thành phố như Gia- các-ta, Xu-ra-bay-a… đã nổi dậy chiếm các công sở, đài phát thanh và giành chính quyền từ tay Nhật. Ngày 18 – 8 – 1945, lãnh tụ các chính đảng và các đoàn thể mở hội nghị của ủy ban trù bị độc lập In-đô- nê-xi-a, thông qua bản Hiến pháp, bầu Xu-các-nô làm Tổng thống nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a.

– Tháng 11 – 1945, với sự giúp đỡ của quân Anh, Hà Lan quay trở lại xâm lược In-đô-nê-xi-a. Cuộc kháng chiến chống thực dân Hà Lan, bảo vệ độc lập của nhân dân In-đô-nê-xi-a bùng nổ.

– Tháng 5 – 1949, Hà Lan và In-đô-nê-xi-a kí hiệp định đình chiến tại Gia-các-ta.

– Tháng 11 năm đó, hai bên kí Hiệp ước La-hay, theo đó In-đô-nê-xi-a nằm trong khối Liên hiệp Hà Lan In-đô-nê-xi-a và phụ thuộc nhiều mặt vào Hà Lan. Do cuộc đấu tranh của nhân dân đòi độc lập thật sự và thống nhất, ngày 15 – 8 – 1950, nước Cộng hoà In-đô-nê-xi-a thống nhất được thành lập.

– Từ năm 1953, chính phủ của Đảng Quốc dân do Xu-các-nô đứng đầu đã thực hiện nhiều biện

pháp nhằm củng cố nền độc lập của đất nước.

– Ngày 30 – 9 – 1965, đơn vị quân đội bảo vệ Phủ Tổng thống tiến hành cuộc đảo chính quân sự. Cuộc đảo chính thất bại. Chính phủ mới được thành lập, đến năm 1967, tướng Xu-hác-tô lên làm Tổng thống. Tình hình chính trị dần dần ổn định, In-đô-nê-xi-a bước vào giai đoạn phát triển kinh tế, văn hoá và giáo dục.

– Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ năm 1997 ở Đông Nam Á làm cho In-đô-nê-xi-a rơi vào tình trạng rối loạn: Xu-hác-tô rời khỏi chức vụ Tổng thống, mâu thuẫn sắc tộc gay sắt, kinh tế suy sụp. Phải đến năm 2001 – 2002, đất nước mới dần dần được phục hồi nhưng những vụ khủng bố ở Ba-li, Gia- các-ta…, nạn động đất, sóng thần nên In-đô-nê-xỉ-a vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

  1. Lào
  2. Cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954)

– Giữa tháng 8 – 1945, Nhật Bản đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Nắm thời cơ thuận lợi, ngày

23 – 8 – 1945, nhân dân Lào nổi dậy giành chính quyền. Ngày 12 – 10, Chính phủ Lào ra mắt quốc dân và tuyên bố độc lập.

– Tháng 3 – 1946, thực dân Pháp trở lại tái chiếm Lào. Nhân dân Lào một lần nữa phải cầm súng kháng chiến bảo vệ nền độc lập của mình.

– Từ năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Lào ngày càng phát triển, lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành.

– Trong những năm 1953 – 1954, quân dân Lào đã phối hợp cùng với quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào, Thượng Lào…, giành thắng lợi to lớn. Những cuộc tấn công này đã phối họp chặt chẽ với chiến trường Việt Nam, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần vào

 

chiến thắng chung của nhân dân ba nước Đông Dương. Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương (tháng 7 –

1954) đã thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, công nhận địa vị hợp pháp của các

lực lượng kháng chiến Lào.

  1. Cuộc kháng chiến chống Mĩ (1954 – 1975)

– Ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa kí kết, Mĩ đã lập tức hất cẳng Pháp, âm mưu biến Lào thành thuộc địa kiểu mới. Từ đây, nhân dân Lào lại phải cầm súng chống kẻ thù mới là đế quốc Mĩ.

– Dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (thành lập ngày 22 – 3 – 1955), cuộc đấu tranh của nhân dân Lào diễn ra cả trên ba mặt trận: quân sự – chính trị – ngoại giao, đã đánh bại các cuộc tấn công quân sự của Mĩ và tay sai. Đến đầu những năm 60 đã giải phóng 2/3 lãnh thổ, hơn 1/3 dân số cả

nước.

– Tháng 2 – 1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hoà bình và thực hiện hoà hợp dân tộc ở Lào được kí kết giữa Mặt trận Lào yêu nước và phái hữu Viêng Chăn. Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng Quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập.

– Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổỉ dậy của quân dân Việt Nam thắng lợi đã cổ cũ và tạo điều kiện cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Từ tháng 5 đến tháng 12 – 1975, quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền trong cả

nước.

– Ngày 2 – 12 – 1975, nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào chính thức thành lập. Từ đó, nước

Lào bước sang thời kì mới – xây dựng đất nước và phát triển kinh tế – xã hội.

  1. Cam-pu-chia

– Đầu tháng 10 – 1945, thực dân Pháp quay trở lại xâm lược và thống trị Cam-pu-chia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ năm 1951 là Đảng Nhân dân cách mạng Cam-pu-chia, nhân dân Cam-pu-chia tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

– Ngày 9 – 11 – 1953, do cuộc vận động ngoại giao của vua Xi-ha-núc, chính phủ Pháp đã kí hiệp ước “trao trả độc lập cho Cam-pu-chia”. Tuy vậy, quân đội Pháp vẫn chiếm đóng Cam-pu-chia.

– Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, thực dân Pháp phải kí Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương, công

nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Cam-pu-chia.

– Từ năm 1954 đến đầu năm 1970, chính phủ Xi-ha-núc thực hiện đường lối hoà bình trung lập.

– Sau cuộc đảo chính lật đổ Xi-ha-núc ngày 18 – 3 – 1970 của thế lực tay sai Mĩ, Cam-pu-chia bị

kéo vào quỹ đạo của cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới của Mĩ trên bán đảo Đông Dương.

– Cuộc kháng chiến chống Mĩ và tay sai của nhân dân Cam-pu-chia, với sự giúp đỡ của bộ đội tình

nguyện Việt Nam, đã phát triển nhanh chóng.

– Từ tháng 9 – 1973, lực lượng vũ trang Cam-pu-chia đã chuyển sang tấn công, bao vây thủ đô

Phnôm Pênh và các thành phố khác. Mùa xuân năm 1975, quân dân Cam-pu-chia mở cuộc tấn công vào

 

sào huyệt cuối cùng của địch. Ngày 17 – 4 – 1975, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân Cam-pu-chia kết thúc thắng lợi.

– Ngay sau đó, nhân dân Cam-pu-chia lại phải tiếp tục cuộc đấu tranh chống tập đoàn Khơ-me đỏ do Pôn Pốt cầm đầu phản bội cách mạng, thi hành chính sách diệt chủng, tàn sát hàng triệu người dân vô tội. Ngày 3 – 12 – 1978, Mặt trận dân tộc cứu nước Cam-pu-chia thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Mặt trận, được sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, quân và dân Cam-pu-chia nổi dậy ở nhiều nơi. Ngày 7 – 1 – 1979, thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng khỏi chế độ Khơ-me đỏ diệt chủng Cam-pu-chiạ bước vào thời kì hồi sinh, xây dựng lại đất nước.

Xem tiếp:  CĐ9. Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống pháp (1950 - 1953)

– Tuy nhiên, từ năm  1979, ở Cam-pu-chỉa đã diễn  ra cuộc nội chiến giữa lực lượng của Đảng Nhân dân cách mạng với các phe phái đối lập, chủ yếu là lực lượng Khơ-me đỏ. Cuộc nội chiến kéo dài hơn một thập kỉ, gây nhiều tổn thất cho đất nước.

– Với sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, các bên ở Cam-pu-chia đã đi đến thoả thuận hoà giảỉ và hoà hợp dân tộc. Ngày 23 – 10 – 1991, Hiệp định hoà bình về Cam-pu-chia được kí kết tại Pa-ri. Sau cuộc tổng tuyển cử tháng 9 – 1993, Quốc hội mới đã thông qua Hỉến pháp, tuyên bố thành lập Vương quốc Cam-pu-chia do N.Xi-ha-núc làm Quốc vương. Từ đó, Cam-pu-chia bước sang một thời kì mới.

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á

  1. Nhóm các nước Đông Dương

– Sau khi giành được độc lập, các nước Đông Dương, về cơ bản đã phát triển nền kinh tế tập trung, và đã đạt được một số thành tựu, nhưng còn gặp nhiều khó khăn.

– Trong thời kì xây dựng đất nước, mặc dù đã đạt được một số thành tựu bước đầu, nhưng Lào vẫn là nước nông nghiệp. Công nghiệp và dịch vụ chưa phát triển. Từ cuối những năm 80 của thế kỉ XX, Lào thực hiện công cuộc đổi mới, kinh tế có những bước phát triển khá nhanh, đời sống các dân tộc được cải

thiện.

– Từ sau khi thành lập Vương quốc (1993), tình hình chính trị dần dần ổn định, Cam-pu-chia bước

vào giai đoạn phục hồi kinh tế và xây dựng, đạt được một số thành tựu đáng kể.

  1. Nhóm 5 nước sáng lập ASEAN

– Sau khi giành được độc lập, các nước In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Phi-líp-pin, Thái

Lan và Bru-nây đều tiến hành công nghiệp hoá, theo mô hình của các nước tư bản chủ nghĩa.

– Ngoài Bru-nây, 5 nước còn lại (gọi là nhóm nước sáng lập ASEAN) đều tiến hành công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu (chiến lược kinh tế hướng nội) với mục tiêu nhanh chóng xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng nền kinh tế tự chủ.

– Chiến lược hướng nội nhìn chung được thực hiện trong khoảng thời gian những năm 60; tuy nhiên, thời điểm bắt đầu và kết thúc quá trình này của các nước không giống nhau.

– Nội  dung chủ yếu của chiến lược  kinh tế hướng nội  là đẩy mạnh  phát triển  các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nội địa thay thế hàng nhập khẩu, lấy thị trường trong nước làm chỗ dựa để phát triển sản xuất.

 

– Thực hiện chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu, các nước đã đạt được một số thành tựu đáng kể, đáp ứng được nhu cầu của nhân dân, phát triển một số ngành chế biến, chế tạo, giải quyết nạn thất nghiệp,…

Tuy nhiên, chiến lược kinh tế hướng nội cũng bộc lộ một số hạn chế: thiếu nguồn vốn, nguyên liệu và công nghệ, chi phí cao dẫn tới làm ăn thua lỗ, tệ nạn tham nhũng quan liêu phát triển, đời sống lao động còn khó khăn, chưa giải quyết được vấn đề tăng trưởng vói công bằng xã hội.

– Sau khoảng 30 năm thực hiện chiến lược hướng ngoại, 5 nước trên đã thu được nhiều thành tựu. Tỉ trọng công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã lớn hơn nông nghiệp, mậu dịch, đối ngoại tăng trưởng

nhanh.

  1. Các nước khác ở Đông Nam Á

– Nền kinh tế Bru-nây có nét khác 5 nước nói trên. Hầu như toàn bộ kinh tế Bru-nây đều dựa vào nguồn thu từ dầu mỏ và khí tự nhiên (chiếm tới 75% thu nhập trong nước). Lương thực, thực phẩm phải nhập tới 80%. Do có nhiều dầu lửa và khí đốt, dân số lại ít (336.000 người – năm 2000), nên tổng thu nhập bình quân theo đầu người của nước này lên tới 17.400 USD (1999). Từ giữa những năm 80 của thế kỉ XX, chính phủ Bru-nây tiến hành điều chỉnh các chính sách cơ bản nhằm đa dạng hoá nền kinh tế.

– Sau gần 30 năm thi hành chính sách tự lực hướng nội của chính quyền quân sự, Mi-an-ma có cơ sở hạ tầng lạc hậu, xuất khẩu gạo – thế mạnh của Mi-an-ma – giảm dần, tốc độ tăng trưởng kinh tế rất thấp… Từ cuối năm 1998, chính phủ Mi-an-ma tiến hành cải cách kinh tế với ba chính sách lớn: kêu gọi đầu tư và “mở cửa”, giải phóng khu vực kinh tế tư nhân, xử lí có hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước. Cuộc cải cách bước đầu mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP năm 1995 là 7%, năm 1998: 5,8%, năm 1999: 11%, năm 2000: 6,2%.

  1. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TỔ CHỨC ASEAN
  2. Hoàn cảnh

– Ngày 8 – 8 – 1967, Hiệp hội các nước Đông Nam Á (viết tắt theo tiếng Anh là ASEAN) được thành lập tại Băng Cốc (Thái Lan) với sự tham gia của 5 nước: In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po, Thái Lan và Phi-líp-pin.

  1. Quá trình hoạt động

– Trong giai đoạn đầu (1967 – 1975), ASEAN là một tổ chức non yếu, sự hợp tác trong khu vực còn trong trạng  thái khởi đầu, chưa  có vị  trí trên trường quốc tế. Từ giữa những năm  70, ASEAN có những bước tiến mới. Sự phát triển này được đánh dấu bằng Hội nghị cấp cao lần thứ nhất họp tại Ba-li (In-đô-nê-xi-a) vào tháng 2 – 1976 với việc kí Hiệp ước hữu nghị và hợp tác ở Đông Nam Á (gọi tắt là Hiệp ước Ba-li).

– Vào thời điểm này, quan hệ giữa các nước Đông Dương và ASEAN bước đầu được cải thiện. Hai nhóm nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao và bắt đầu có các chuyến đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao.

 

Năm 1984, sau khi giành được độc lập,  Bru-nây gia nhập  và trở  thành thành viên thứ  6 của

ASEAN.

– Từ đầu những năm 90, “Chiến tranh lạnh” chấm dứt và “vấn đề Cam-pu-chia” được giải quyết, tình hình chính trị khu vực được cải thiện căn bản, ASEAN có điều kiện mở rộng tổ chức, kết nạp thành viên mới.

– Ngày 22 -7 – 1992, Việt Nam và Lào tham gia Hiệp ước Ba-li. Tiếp đó, tháng 7 – 1995, Việt Nam trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN. Tháng 7 – 1997, Lào và Mi-an-ma gia nhập ASEAN, và tháng 4 – 1999 Cam-pu-chia được kết nạp vào tổ chức này.

– Như vậy, từ  5 nước  sáng lập  ban đầu,  ASEAN đã  phát triển  thành 10 thành viên. Từ đây, ASEAN đẩy mạnh hoạt động hợp tác kinh tế, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hoà bình, ổn định để cùng phát triển.

  1. ẤN ĐỘ
  2. Phong trào đấu tranh chống thực dân Anh

– Trong những năm 1945 – 1947, cuộc đấu tranh đòi độc lập của nhân dân Ấn Độ dưới sự lãnh đạo của Đảng Quốc đại bùng lên mạnh mẽ.

– Quy mô rộng lớn và khí thế của phong trào đấu tranh đã làm cho chính quyền thực dân Anh không thể tiếp tục thống trị Ấn Độ theo hình thức thực dân kiểu cũ được nữa, phải nhượng bộ, hứa sẽ trao quyền tự trị cho Ấn Độ và người Anh sẽ rời khỏi Ấn Độ trước tháng 7 – 1948.

– Trên cơ sở thoả thuận này, ngày 15 – 8 – 1947, Ấn Độ đã tách thành hai quốc gia: Ấn Độ và Pa- ki-xtan.

– Không thoả mãn với quy chế tự trị, Đảng Quốc đại đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc hoàn toàn trong những năm 1948 – 1950. Trước sức ép của phong trào quần chúng, thực dân Anh buộc phải công nhân độc lập hoàn toàn của Ấn Độ. Ngày 26 – 1 – 1950, Ấn Độ tuyên bố độc lập và thành lập nước Cộng hoà.

  1. Thời kì xây dựng đất nước

– Trong thời kì xây dựng đất nước, Ấn Độ đã thực hiện những kế hoạch dài hạn nhằm phát triển

kinh tế – xã hội và văn hoá.

– Nhờ thành tựu của cuộc “cách mạng xanh” trong nông nghiệp, từ giữa những năm 70 của thế kỉ XX, Ấn Độ đã tự túc được lương thực cho gần 1 tỉ người và bắt đầu xuất khẩu. Sản xuất công nghiệp tăng, đặc biệt là công nghiệp nặng, chế tạo máy, xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại.

– Trong ba thập kỉ cuối thế kỉ XX, Ấn Độ đầu tư nhiều vào lĩnh vực công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin và viễn thông, và đang cố gắng vươn lên hàng các cường quốc về công nghệ phần mềm, công nghệ hạt nhân, công nghệ vũ trụ… Cuộc “cách mạng chất xám” bắt đầu từ những năm 90 đã đưa Ấn Độ trở thành một trong những nước sản xuất phần mềm lớn nhất thế giới. Trong các lĩnh vực văn hoá, giáo dục và khoa học – kĩ thuật, Ấn Độ có những bước tiến nhanh chóng.

 

– Về đối ngoại, Ấn Độ theo đuổi chính sách hoà bình, trung lập tích cực, luôn luôn ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc. Ấn Độ là một trong những nước sáng lập “Phong trào không liên kết”. Vị thế của Ấn Độ ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

– Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam ngày 7 – 1 – 1972.

  1. KHU VỰC TRUNG ĐÔNG

– Khu vực Trung Đông (hay còn gọi là Tây Á) bao gồm phần lớn các nước Ả Rập là khu vực có nguồn dầu mỏ chiếm 2/3 trữ lượng dầu toàn thế giới, là nơi tiếp giáp ba châu (Á, Phi, Âu). Cùng với kênh đào Xuy-ê, nơi này trở thành đầu mối giao thông quan trọng của thế giới. Do đó, Trung Đông luôn là mục tiêu nhòm ngó, tranh giành của các đế quốc phương Tây.

Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ6. Phong trào giải phóng dân tộc 1939 - 1945

– Theo Nghị quyết 181 (29 – 11 – 1947) của Liên hợp quốc, sự đô hộ của Anh bị huỷ bỏ và lãnh thổ

Pa-le-xtin bị chia làm hai quốc gia: một của người Ả Rập Pa-le-xtin, một của người Do Thái. Ngày 14 – 5 –

1948, Nhà nước Do Thái thành lập, lấy tên là I-xra-en. Không tán thành Nghị quyết 181, ngày 15 – 5 – 1948, bảy nước Ả Rập đã tấn công I-xra-en. Từ đó, xung đột giữa I-xra-en và Pa-le-xtin diễn ra liên miên.

– Ngày 28 – 5 – 1964, tại Giê-ru-xa-lem, tổ chức giải phóng Pa-le-xtin (PLO) được thành lập, đã đoàn kết rộng rãi các lực lượng yêu nước đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng Pa-le-xtin. Năm 1975, Liên hợp quốc công nhận quyền bất khả xâm phạm của nhân dân Pa-le-xtin. Ngày 15 – 11 – 1988, Nhà nước Pa-le-xtin ra đời. Tháng 3 – 1989, Y. A-ra-phát được bầu là Tổng thống đầu tiên của Nhà nước này.

– Ngày 26 – 8 – 1993, I-xra-en chấp nhận đàm phán với PLO trên nguyên tắc “đồi đất lấy hoà bình”, I-xra-en tuyên bố sẵn sàng trao trả cho người Pa-le-xtin vùng Ga-da và Giê-ri-cô. Tuyên bố này đã khai thông bế tắc trong đàm phán giữa hai phía I-xra-en và Pa-le-xtin. Ngày 13 – 9 – 1993, sau 45 năm chiến tranh, lần đầu tiên một hiệp định hoà bình được kí kết giữa I-xra-en và PLO, còn gọi là Hiệp định Ga-da – Giê-ri-cô.

– Thoả thuận này là một bước đột phá tích cực trong tiến trình dàn xếp hoà bình ở Trung Đông. Tiếp đó, ngày 28 – 9 – 1995, dưới sự chứng kiến của Tổng thống Mĩ B. Clin-tơn, tại Nhà Trắng (Mĩ), Chủ tịch PLO A-ra-phát và Thủ tướng I-xra-en Ra-bin đã chính thức kí hiệp định mở rộng quyền tự trị của người Pa-le-xtin ở bờ Tây sông Gioóc-đan. Bản ghi nhớ Oai Ri-vơ được I-xra-en và Pa-le-xtin kí ngày 23

– 10 – 1998, theo đó I-xra-en sẽ chuyển giao 27,2% lãnh thổ bờ Tây sông Gioóc-đan cho Pa-le-xtin trong vòng 12 tuần.

– Tuy nhiên, tiến trình hoà bình ở Trung Đông tiến triển chậm, có lúc hầu như ngừng trệ. Cuộc

xung đột giữa hai bên vẫn diễn ra liên tiếp.

  1. CÁC NƯỚC CHÂU PHI
  2. Vài nét về cuộc đấu tranh giành độc lập
  3. Các điều kiện tác động đến phong trào

– Sự kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai cũng như những thay đổi về tình hình quốc tế sau chiến

tranh.

 

– Thất bại của chủ nghĩa phát xít, sự suy yếu của Anh và Pháp, hai quốc gia thống trị nhiều vùng

thuộc địa tại châu Phi.

– Thắng lợi của  phong trào giải  phóng dân tộc ở  châu Á, trước hết  là của Việt  Nam và Trung

 

 

Quốc.

 

Tất cả các điều kiện đó đã cổ vũ các cuộc đấu tranh của nhân dân châu Phi.

  1. Diễn biến của phong trào

– Phong trào đấu tranh bùng nổ sớm nhất ở Bắc Phi, sau đó lan ra các vùng khác.

+ Mở đầu là cuộc binh biến của sĩ quan và binh lính yêu nước Ai Cập (3 – 7 – 1952) lật đổ vương

 

 

triều Pha-rúc, chỗ dựa của thực dân Anh, lập nên nước Cộng hoà Ai Cập.

+ Cùng năm 1952, nhân dân Li-bi giành được độc lập.

– Sau 8 năm kháng chiến kiên cường chống Pháp (1954 – 1962), nhân dân An-giê-ri đã giành được thắng lợi.

– Từ nửa sau thập niên 50, hệ thống thuộc địa của thực dân châu Âu ở châu Phi nối tiếp nhau tan rã, các quốc gia độc lập lần lượt xuất hiện như Tuy-ni-di, Ma-rốc, Xu-đăng (1956); Ga-na (1957); Ghi-nê (1958),… Đặc biệt, lịch sử ghi nhận năm 1960 là “Năm châu Phi” với 17 nước được trao trả độc lập.

– Năm 1975, thắng lợi của nhân dân Mô-dăm-bích và Ăng-gô-la trong cuộc đấu tranh chống thực

dân Bồ Đào Nha, về cơ bản đã chấm dứt chủ nghĩa thực dân cũ ở châu Phi cùng hệ thống thuộc địa của

nó.

– Từ sau năm 1975, nhân dân các thuộc địa còn lại ở Châu Phi hoàn thành cuộc đấu tranh đánh đổ nền thống trị thực dân cũ, giành độc lập dân tộc và quyền sống của con người. Sau nhiều thập kỉ đấu tranh, nhân dân Nam Rô-đê-di-a đã tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Dim-ba-bu-ê (18 – 4 – 1980).

– Trước sức ép của nhân dân và Liên hợp quốc, chính quyền Nam Phi đã phải trao trả độc lập cho Na-mi-bi-a; tháng 3 – 1990, Na-mi-bi-a tuyên bố độc lập. Ngay chính tại Nam Phi, trước áp lực đấu tranh của người da màu, tháng 2 – 1990, chính quyền Nam Phi đã tuyên bố từ bỏ chính sách phân biệt chủng tộc (gọi là A-pác-thai). Sau đó, với thắng lợi của cuộc bầu cử dân chủ đa chủng tộc lần đầu tiên ở Nam Phi (tháng 4 – 1994) ông Nen-Xơn Man-đê-la trở thành Tổng thống da đen đầu tiên của Cộng hoà Nam Phi. Sự kiện đó đã đánh dấu sự chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc dã man, đầy bất công, một biểu hiện của chủ nghĩa thực dân.

  1. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội

– Sau khi giành được độc lập, các nước châu Phi bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước, phát triển kinh tế – xã hội, đã gặt hái được những thành tựu bước đầu nhưng chưa đủ để thay đổi căn bản bộ mặt của châu lục này.

– Nhiều nước châu Phi còn nằm trong tình trạng lạc hậu, không ổn định và khó khăn do xung đột, đảo chính, nội chiến vẫn diễn ra liên miên; đói nghèo, bệnh tật và mù chữ; sự bùng nổ về dân số; nợ nần và sự phụ thuộc vào nước ngoài v.v… Tất cả những khó khăn đó đã và đang là thách thức lớn đối với nhân dân các nước châu Phi.

 

– Các nước châu Phi cùng cộng đồng quốc tế đang tìm nhiều giải pháp tháo gỡ những khó khăn: giải quyết xung đột, khắc phục đói nghèo, ngăn ngừa bệnh dịch. Tổ chức thống nhất châu Phi (OAU) thành lập tháng 5 – 1963, đến năm 2002 đổi thành Liên minh châu Phi (AU). Liên minh châu Phi đang triển khai nhiều chương trình chiến lược vì sự phát triển của châu lục.

VIII. CÁC NƯỚC MĨ LA-TINH

  1. Vài nét về quá trình giành và bảo vệ độc lập

– Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với ưu thế về kinh tế và quân sự, Mĩ tìm cách biến Mĩ La-tinh thành “sân sau” của mình và xây dựng các chế độ độc tài thân Mĩ.

– Cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài thân Mĩ bùng nổ và phát triển. Tiêu biểu là thắng lợi của

cách mạng Cu-ba dưới sự lãnh đạo của Phi-đen Cát-xtơ-rô.

+ Tháng 3 – 1952, với sự giúp đỡ của Mĩ, Ba-ti-xta đã thiết lập chế độ độc tài quân sự ở Cu-ba. Chính quyền Ba-ti-xta xoá bỏ hiến pháp tiến bộ, cấm các đảng phái chính trị hoạt động, bắt giam và tàn sát nhiều người yêu nước.

+ Trong bối cảnh đó, nhân dân Cu-ba đã đứng lên đấu tranh chống chế độ độc tài. Ngày 1 – 1 –

1959 chế độ Ba-ti-xta sụp đổ, nước Cộng hoà Cu-ba ra đời do Phi-đen Cát-xtơ-rô đứng đầu.

– Nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng Cu-ba, vào tháng 8 – 1961, Mĩ đề xướng việc tổ chức “Liên minh vì tiến bộ” để lôi kéo các nước Mĩ La-tinh. Cũng vì thế, từ thập niên 60 – 70 của thế kỉ XX, phong trào đấu tranh chống Mĩ và chế độ độc tài thân Mĩ ở khu vực càng phát triển và thu nhiều thắng lợi.

– Cùng với những hình thức bãi công của công nhân, nổi dậy của nông dân đòi ruộng đất, đấu tranh nghị trường để thành lập các chính phủ tiến bộ, cao trào đấu tranh vũ trang bùng nổ mạnh mẽ ở Mĩ La-tinh nên khu vực này được gọi là “lục địa bùng cháy”. Phong trào đấu tranh vũ trang chống chế độ độc tài ở các nước Vê-nê-xu-ê-la, Goa-tê-ma-la, Cô-lôm-bi-a, Pê-ru, Ni-ca-ra-goa, Chi-lê, En Xan-va-đo… đã diễn ra liên tục.

  1. Tình hình phát triển kinh tế – xã hội

– Sau khi khôi phục độc lập, giành được chủ quyền, các nước Mĩ La-tinh bước vào thời kì xây dựng và phát triển kinh tế – xã hội, đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Một số nước trở thành nước công nghiệp mới (viết tắt theo tiếng Anh là NICs) như Bra-xin, Ác-hen-ti-na, Mê-hi-cô.

– Trong thập niên 80 của thế kỉ XX, nhiều nước Mĩ La-tinh rơi vào tình trạng suy thoái kinh tế nặng nề, lạm phát tăng nhanh, khủng hoảng trầm trọng, nợ nước ngoài chồng chất, dẫn đến những biến động về chính trị.

– Sau thất bại trong vụ tranh chấp chủ quyền quần đảo Man-vi-nát với Anh (tháng 4 – 1982), chế độ độc tài bị lật đổ ở Ác-hen-ti-na, mở đầu quá trình dân sự hoá chính quyền ở hàng loạt nước Mĩ La-tinh khác: Bô-li-vi-a (1982), Bra-xin (1985), Ha-1-ti (1986), Chi-lê (1988), En Xan-va-đo  (1989) và Ư-ru- goay (1989).

 

– Bước sang thập niên 90, nền kinh tế Mĩ La-tinh có chuyển biến tích cực hơn. Tỉ lệ lạm phát được hạ xuống còn dưới 30%/năm, một số nước đạt mức lí tưởng như Mê-hi-cô: 4,4%, Bô-li-vi-a: 4,45%, Chi- lê 4,6%,… đầu tư nước ngoài vào Mĩ La-tinh với khối lượng lớn: 68 tỉ USD (1993) và trên 70 tỉ USD (1994), đứng hàng thứ hai sau Đông Á. Tuy nhiên, tình hình kinh tế của nhiều nước Mĩ La-tinh còn gặp không ít khó khăn, mâu thuẫn xã hội là vấn đề nổi bật, tham nhũng đã trở thành quốc nạn và ngăn cản sự phát triển kinh tế.

Link tải File:

Full_CHỦ ĐỀ 3. CÁC NƯỚC Á, PHI, MỸ LA-TINH (1945 - 2000)_hoctai.vn.zip