Lịch sử thế giới – CĐ5. Quan hệ quốc tế (1945 – 2000)

Chúng ta vừa đi qua 4 chủ đề về Lịch sử Thế giới, chủ đề tiếp theo hãy cùng nhau tìm hiểu về bài này: Chủ đề 5. Quan hệ quốc tế (1945 – 2000), Thầy/Cô và các Em muốn tìm hiểu thêm về Lịch sử Việt Nam có thể theo dõi tại link: Tại đây

 

CHỦ ĐỀ 5

QUAN HỆ QUỐC TẾ (1945 – 2000)

 

  1. MÂU THUẪN ĐÔNG – TÂY VÀ SỰ KHỞI ĐẦU CỦA “CHIẾN TRANH LẠNH”

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hai cường quốc Liên Xô và Mĩ nhanh chóng chuyển sang thế đối đầu, dần dần đi tới tình trạng “chiến tranh lạnh”.

– Trước hết, đó là sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc.

+ Liên Xô chủ trường duy trì hòa bình an ninh thế giới, bảo vệ những thành quả của chủ nghĩa xã hội và

đẩy mạnh phong trào cách mạng thế giới.

+ Ngược lại, Mĩ ra sức chống phá Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi phong trào cách mạng nhằm thực hiện mưu đồ bá chủ thế giới.

– Nhưng cũng sau chiến tranh, Mĩ đã vươn lên thành một nước tư bản giàu mạnh nhất, vượt xa các nước tư bản khác, nắm độc quyền vũ khí nguyên tử. Mĩ tự cho mình có quyền lãnh đạo thế giới.

– Sự kiện được xem là khởi đầu cho chính sách chống Liên Xô gây nên tình trạng chiến tranh lạnh của Mĩ là bản thông điệp của Tổng thống Tơ – ru – man giửi Quốc hội Mĩ ngày 12 – 3 – 1947. Trong đó, Tổng thống Mĩ khẳng định sự tồn tại của Liên Xô là nguy cơ lớn đối với nước Mĩ và đề nghị viện trợ khẩn cấp

400 triệu USD cho hai nước Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì.

– Vào đầu tháng 6 -1947, Mĩ đề ra “kế hoạch Mác – san” với khoản viện trợ khoảng 17 tỉ USD để giúp các nước Tây Âu phục hồi nền kinh tế tàn phá sau chiến tranh. Ngày 4 – 4 – 1949, Mĩ thành lập khối quân sự – tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).

– Trước những hoạt động đe dọa đó, nhất là việc tham gia của CHLB Đức vào NATO, tháng 5 – 1955

Liên Xô và các nước Đông Âu (An-ba-ni, Ba Lan, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Ru- ma-ni) đã thành lập tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va, một liên minh chính trị – quân sự mang tính chất phòng thủ của các nước xã hội chủ nghĩa châu Âu.

– Sự ra đời của NATO và tổ chức Hiệp ức Vác-sa-va là những sự kiện cuối cùng đánh dấu sự xác lập của cục diện hai cực, hai phe. “Chiến tranh lạnh” đã bao trùm cả thế giới.

  1. SỰ ĐỐI ĐẦU ĐÔNG – TÂY VÀ CÁC CUỘC CHIẾN TRANH CỤC BỘ
  2. Cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp ở Đông Dương (1945 – 1954)
Xem tiếp:  Phần 1: Lịch sử Việt Nam - CĐ5. Phong trào dân chủ 1936 - 1939

– Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thực dân Pháp đã quay lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược ba

nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Tháng 12 – 1946, cuộc chiến đã lan rộng trên toàn cõi Đông Dương.

– Vượt qua muôn vàn khó khăn gian khổ, nhân dân ba nước Đông Dương đã kiên cường kháng chiến. Sau khi cách mạng Trung Quốc thành công (1 – 10 – 1949), cuộc kháng chiến của Việt nam có điều kiện liên lạc và nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa. Từ năm

1950, Mĩ viện trợ cho Pháp và can thiệp ngày càng sâu vào cuộc chiến tranh Đông Dương. Từ đó, cuộc chiến tranh Đông Dương ngày càng chịu sự tác động của hai phe.

 

– Sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử (7 – 5 – 1954), Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương đã được triệu tập với sự tham gia của các nước lớn như Liên Xô, Trung Quốc, Mĩ, Anh và các bên tham chiến là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp… Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương (21 – 7 – 1954) đã công nhận độc lập chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Cuộc chiến ở Đông Dương đã chấm dứt, nhưng Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự.

  1. Cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953)

– Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, theo thỏa thuận giữa các nước Đồng minh, quân đội Liên Xô chiếm đóng miền Bắc, quân đội Mĩ chiếm đống miền Nam, lấy vĩ tuyến 38 làm giới tuyến phân chia tạm thời. Tới cuối năm 1948, hai chính quyền được thành lập riêng rẽ là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía Bắc và Đại Hàn dân quốc (Hàn Quốc) ở phía Nam, được Liên Xô và Mĩ bảo trợ cho mỗi bên.

– Sau hơn ba năm chiến tranh, với những tổn thất nặng nề của cả hai bên, ngày 27 – 7 – 1953, Hiệp định đình chiến được kí kết giữa Trung Quốc – Triều Tiên với Mĩ – Hàn Quốc. Theo đó, vĩ tuyến 38 vẫn là ranh gới quan sự giữa hai miền Bắc, Nam Triều Tiên. Cuộc chiến tranh Triều Tiên là sự đối đầu đầu tiên giữa hai phe, không phân thắng bại.

  1. Cuộc khủng hoảng Ca-ri-bê (1962)
Xem tiếp:  CĐ13: Khôi phục và phát triển kinh tế-xã hội miền bắc, giải phóng hoàn toàn

– Sau khi cách mạng Cu-ba thắng lợi, Mĩ không ngừng chống phá công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân Cu-ba.

– Tháng 10 – 1962, tình hình trở nên căng thẳng nghiêm trọng do “cuộc khủng hoảng Ca-ri-bê”.

  1. Cuộc chiến tranh chống Mĩ xâm lược Việt Nam (1954- 1975)

– Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ  1954 về Đông Dương, Mĩ đã  nhanh chóng hất cẳng  Pháp, dựng  lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mĩ. Nhưng mưu đồ của Mĩ vấp phải ý chí quật cường và cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam.

– Chiến tranh Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh cục bộ lớn nhất phản ánh mâu thuẫn giữa hai phe. Nhưng cuối cùng, mọi chiến lược chiến tranh của Mĩ đều bị phá sản. Tháng 1 – 1973, Hiệp định Pa-ri được kí kết. Theo đó, Mĩ cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, rút quân khỏi Việt Nam, cam kết không dính líu hoặc can thiệp về quân sự đối với nước ta.

– Đế quốc Mĩ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược sang Lào và Cam-pu-chia. Nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ cước nước, đến năm 1975 giành thắng lợi hoàn toàn.

– Tóm lại, trong thời kì “Chiến tranh lạnh”, hầu như mọi cuộc chiến tranh hoặc xung đột quân sự ở các khu vực trên thế giới, với những hình thức và mức độ khác nhau, đều liên quan tới sự đối đầu giữa hai cực Xô – Mĩ.

III. XU THẾ HÒA HOÃN ĐÔNG – TÂY VÀ “CHIẾN TRANH LẠNH” CHẤM DỨT

 

– Đầu những năm 70 xu hướng hòa hoãn Đông – Tây đã xuất hiện với những cuộc gặp gỡ thương lượng

Xô – Mĩ.

+ Ngày 9 – 11 -1972, hai nước Đức – Cộng hòa Dân chủ và Cộng hòa Liên bang đã kí kết tại Bon Hiệp định về những cơ sở của quan hệ giữa Đông Đức và Tây Đức.

+ Cũng trong năm 1972, hai siêu cường Liên Xô, Mĩ đã thỏa thuận về việc hạn chế vũ khí chiến lược và ngày 26 – 5 kí Hiệp ước về việc hạn chế hệ thống phòng chống tên lửa (ABM), sau đó là Hiệp định hạn chế vũ khí tiến công chiến lược (gọi tắt là SALT – 1).

+ Đầu tháng 8 – 1975, 35 nước châu Âu và Mĩ, Ca-na-da đã kí Định ước Hen-xin-ki, khẳng định những nguyên tắc trong quan hệ giữa các quốc gia như bình đẳng, chủ quyền, sự bền vững của đường biên giới, giải quyết hòa bình các tranh chấp.

Xem tiếp:  Lịch sử thế giới - CĐ3. Các nước Á, Phi, Mỹ la-tinh (1945 - 2000)

+ Từ đầu những năm 70, hai siêu cường Xô – Mĩ đã tiến hành những cuộc gặp cấp cao, nhất là từ năm

1985 khi Gooc-ba-chop lên cầm quyền ở Liên Xô.

– Tháng 12 – 1989, trong cuộc gặp không chính thức tại đảo Man-ta (Địa Trung Hải), Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Gooc-ba-chốp và Tổng thống Mĩ Bu-sơ đã chính thức cùng tuyên bố chấm dứt “Chiến tranh lạnh”.

– “Chiến tranh lạnh” chấm dứt đã mở ra nhiều hướng và những điều kiện giải quyết hòa bình các vụ tranh

chấp, xung đột đang diễn ra ở nhiều khu vực trên thế giới.

  1. THẾ GIỚI SAU “CHIẾN TRANH LẠNH”

Sau nhiều năm trì trệ và khủng hoảng kéo dài, tới những năm 1989 – 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa đã bị tan rã ở các nước Đông Âu và Liên bang Xô Viết.

– Ngày 28 – 6 – 1991, Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) tuyên bố giải thể và sau đó ngày 1 – 7 – 1991, tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va chấm dứt hoạt động. Với “cực” Liên Xô tan rã, hệ thống thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa không còn tồn tại và trật tự thế giới hai cực I-an-ta đã sụp đổ. Thế “hai cực” của hai siêu cường không còn nữa, Mĩ là “cực” duy nhất còn lại. Phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở châu Âu và châu Á đã bị mất, ảnh hưởng của Mĩ cũng bị thu hẹp ở nhiều nơi.

– Từ sau năm 1991 đầy biến động, tình hình thế giới đã diễn ra những thay đổi to lớn và phức tạp. Trật tự thế giới hai cực đã sụp đổ nhưng trật tự thế giới mới lại đang trong quá trình hình thành.

– Sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mĩ một lợi thế tạm thời. Giới cầm quyền Mĩ ra sức thiết lập trật tự thế giới mới một cực để Mĩ làm bá chủ thế giới.

– Bước sang thế kỉ XXI, với sự tiến triển của xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, các dân tộc hi vọng về một tương lai tốt đẹp của loài người. Nhưng cuộc tấn công khủng bố bất ngờ vào nước Mĩ ngày 11 – 9 –

2001 đã mở đầu cho một thời kì biến động lớn của tình hình thế giới.

Link tải File:

Full_CHỦ ĐỀ 5. QUAN HỆ QUỐC TẾ (1945 – 2000)_hoctai.vn.zip